Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen trong cuộc họp báo tại San Francisco. Ảnh: Kyodo/TTXVN
Trước đó, các nhà lập pháp đã tạm đình chỉ áp dụng trần nợ công, tức là mức giới hạn cho chính phủ vay để thanh toán các hóa đơn đã phát sinh, cho đến ngày 1/1/2025. Điều này có nghĩa là vào ngày 2/1, một giới hạn mới sẽ được thiết lập phù hợp với số tiền nợ do Bộ Tài chính Mỹ phát hành.
Trong một bức thư gửi Chủ tịch Hạ viện, nghị sĩ Mike Johnson và các nhà lập pháp khác, bà Yellen cho hay nợ công dự kiến sẽ đạt đến trần mới trong khoảng thời gian từ ngày 14/1 - 23/1, khi đó Bộ Tài chính sẽ cần phải bắt đầu thực hiện các biện pháp đặc biệt để có thể tiếp tục tài trợ cho các hoạt động của chính phủ, ngăn chặn việc vỡ nợ.
Trước đó, Quốc hội Mỹ đã tăng mức giới hạn hơn 100 lần để cho phép chính phủ thực hiện được những cam kết chi tiêu.
Tuy nhiên, những người bảo thủ phản đối tăng khoản vay khổng lồ của quốc gia, hiện đang ở mức 36.200 tỷ USD, và nhiều đảng viên Cộng hòa chưa bao giờ bỏ phiếu ủng hộ việc này.
Nếu trần nợ không được nâng lên hoặc dỡ bỏ trước khi các công cụ của Bộ Tài chính Mỹ cạn kiệt, chính phủ có nguy cơ vỡ nợ, ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế nước này.
Cũng như các tổ chức khác, Chính phủ Mỹ vay tiền để thanh toán các khoản chi tiêu. Trần nợ công là mức giới hạn mà Bộ Tài chính Mỹ không được phép vượt qua khi vay thêm. Tuy nhiên, các khoản chi tiêu vẫn tiếp tục phát sinh. Và nếu không nâng trần nợ, Mỹ sẽ rơi vào tình trạng vỡ nợ kỹ thuật - nghĩa là không thể thanh toán các khoản nợ của mình. Vì phần lớn các khoản thanh toán của chính phủ dựa vào vay mượn, việc sẽ khiến nhiều chủ nợ không được trả tiền, dẫn đến những cú sốc nghiêm trọng với kinh tế Mỹ và thị trường tài chính toàn cầu.
Nhà Trắng cảnh báo, một cuộc vỡ nợ có thể gây suy thoái kinh tế, ảnh hưởng đến các chương trình như trợ cấp an sinh xã hội, tín dụng thuế cho trẻ em, hay lương cho quân nhân và nhà thầu liên bang.
Trần nợ công là công cụ tương đối mới trong quản lý kinh tế của Mỹ. Trước năm 1917, Quốc hội phê duyệt từng khoản vay cụ thể. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu tài chính khổng lồ trong Thế chiến thứ I, Quốc hội đã áp dụng giới hạn vay chung.
Từ năm 1939,
Chính phủ Mỹ sử dụng trần nợ như một công cụ quản lý tổng thể nợ công. Từ đó, nó trở thành một cách để Quốc hội xem xét mức nợ của quốc gia.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc xem xét này thường không dẫn đến hành động cụ thể. Từ năm 1960, trần nợ công đã được nâng 78 lần: 49 lần dưới các tổng thống thuộc đảng Cộng hòa và 29 lần dưới các tổng thống thuộc đảng Dân chủ.
Hiện nay, Mỹ nằm trong nhóm các quốc gia có tỷ lệ nợ trên GDP cao nhất thế giới, nghĩa là vay nợ nhiều hơn mức sản xuất. Một số chuyên gia kinh tế cho rằng điều này không quá quan trọng, vì lãi suất vay nợ của Mỹ vẫn tương đối thấp. Tuy nhiên, kể từ đại dịch COVID-19, các thị trường tài chính lo ngại về chi tiêu công và tình trạng bế tắc chính trị, đặc biệt là những tranh cãi về trần nợ, khiến tình hình trở nên căng thẳng hơn.
Trong khi đó, ý tưởng loại bỏ trần nợ từ lâu đã nhận được sự ủng hộ từ đảng Dân chủ. Họ cho rằng không có lý do pháp lý hay tài chính nào để Mỹ không tiếp tục vay nợ. Đáng chú ý, lần đầu tiên Tổng thống đắc cử Donald Trump cũng ủng hộ ý tưởng này.
Phát biểu trong một cuộc phỏng vấn mới đây, ông Trump nói: “Nếu đảng Dân chủ muốn loại bỏ trần nợ, tôi sẵn sàng dẫn đầu”. Ông cho rằng trần nợ "chỉ mang ý nghĩa tâm lý".
Một số thành viên đảng Dân chủ, trong đó có Thượng nghị sĩ Elizabeth Warren, đã đồng tình với ông Trump.
Tuy nhiên, lý do ông Trump muốn loại bỏ trần nợ có thể xuất phát từ hai yếu tố là trần nợ dự kiến chạm mức giới hạn trong nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của ông Trump và kế hoạch cắt giảm thuế của ông sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách, khiến chính phủ phải vay thêm.
Minh Trang (Theo AFP, AP)