Thứ trưởng Bộ Tư pháp: Dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 'đặc biệt quan trọng'

Thứ trưởng Bộ Tư pháp: Dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 'đặc biệt quan trọng'
5 giờ trướcBài gốc
Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật trong kỷ nguyên mới
Để hiểu rõ hơn về dự án Luật, phóng viên đã có cuộc trao đổi với Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh.
Dự thảo Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi) được đánh giá là dự án Luật đặc biệt quan trọng, xin Thứ trưởng cho biết quan điểm, chủ trương về việc xây dựng dự án luật và quá trình thực hiện của Bộ Tư pháp?
Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi) là một dự án luật đặc biệt quan trọng vì nó tác động đến việc xây dựng, hoàn thiện cả hệ thống pháp luật, là “luật làm luật”, giải pháp toàn diện thực hiện đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, nhằm thực hiện hiệu quả 1 trong 3 đột phá chiến lược theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại Phiên khai mạc Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV và kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại buổi làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp; chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ về việc đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện thể chế, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong “kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc”, trong đó đề ra nhiệm vụ cần khẩn trương sửa đổi Luật Ban hành VBQPPL.
Về quá trình thực hiện, Bộ Tư pháp đã tập trung tối đa mọi nguồn lực để nghiên cứu, xây dựng hồ sơ dự án Luật. Mặc dù, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép soạn thảo theo trình tự, thủ tục rút gọn, tuy nhiên, để bảo đảm chất lượng của dự án Luật, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tư pháp chủ động thực hiện đầy đủ các bước theo quy định.
Hiện nay, dự thảo Luật được bố cục gồm 8 chương, 72 điều (giảm 9 chương, 101 điều so với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015), trong đó có sự đổi mới rất căn bản, có những nội dung mang tính chất “đột phá” trong quy trình làm luật, Luật gọn hơn nhưng chất lượng phải tốt hơn, đây là yêu cầu xuyên suốt quá trình xây dựng dự thảo này.
Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện có độ trễ nhất định so với sự phát triển của thực tiễn, điều này dẫn đến tình trạng nhiều vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn nhưng chưa có pháp luật điều chỉnh, vấn đề này được khắc phục như thế nào trong dự án Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi)?
Để khắc phục độ "trễ" của việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, dự thảo Luật đã đưa ra 2 nhóm giải pháp, cụ thể như sau:
Một là, đổi mới căn bản quy trình lập chương trình xây dựng pháp luật để bảo đảm sự linh hoạt, kịp thời phản ứng chính sách, cụ thể: (i) tách quy trình xây dựng chính sách ra khỏi chương trình lập pháp hằng năm để giao cho Chính phủ hoặc cơ quan trình chịu trách nhiệm nghiên cứu, thông qua chính sách làm cơ sở cho việc quy phạm hóa văn bản Luật trước khi trình Quốc hội và (ii) Quốc hội giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định chương trình lập pháp hằng năm theo nguyên tắc chỉ đưa vào chương trình những dự án được Chính phủ hoặc cơ quan trình xây dựng bảo đảm chất lượng.
Hai là, về quy trình thông qua văn bản luật, dự thảo Luật quy định quy trình thông qua các đạo luật trong 1 kỳ họp. Đồng thời quy định rõ, đơn giản hóa quy trình, thủ tục rút gọn và bổ sung quy trình thông qua văn bản trong trường hợp đặc biệt đối với các dự án, dự thảo văn bản xử lý các tình huống khẩn cấp và quan trọng quốc gia sau khi có ý kiến của Bộ Chính trị để kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến lợi ích quốc gia, dân tộc.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh, trình bày tờ trình tóm tắt dự án Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi) tại một chương trình họp toàn thể của Ủy ban Pháp luật.
Công tác tổ chức thi hành pháp luật vẫn bị đánh giá là khâu yếu, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, vấn đề này được xử lý như thế nào khi xây dựng dự thảo Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi)?
Trong Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI đã nêu, công tác tổ chức thi hành pháp luật vẫn là “khâu yếu”, chưa kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, điều này chưa phù hợp với mục tiêu ban hành luật.
Hiện nay, dự thảo Luật cũng kế thừa quy định tại Chương XV và Chương XVI của Luật hiện hành và sửa đổi, bổ sung một số nội dung về giám sát, kiểm tra, xử lý, hợp nhất, pháp điển, rà soát, hệ thống hóa, cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật.
Bên cạnh đó, thực tế thời gian qua cho thấy, trong quá trình tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật, nhiều quy định ở các văn bản dưới luật còn có cách hiểu khác nhau, cần thiết phải có sự hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền để bảo đảm việc áp dụng được thống nhất. Tuy nhiên, Luật hiện hành chưa có quy định cụ thể dẫn đến khó khăn trong việc xác định thẩm quyền, trách nhiệm hướng dẫn...
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị và ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, dự thảo Luật bổ sung quy định về hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của dự thảo Luật chính là hướng dẫn quy định trong văn bản quy phạm pháp luật mà không phải là hướng dẫn áp dụng văn bản quy phạm pháp luật đối với từng vụ việc, trường hợp cụ thể.
Mục đích của việc hướng dẫn là bảo đảm các cơ quan, tổ chức hiểu đúng và thống nhất quy định trong văn bản quy phạm pháp luật. Căn cứ vào nội dung hướng dẫn để quyết định việc áp dụng pháp luật cho từng trường hợp cụ thể và chịu trách nhiệm đối với việc áp dụng pháp luật của mình.
Chịu trách nhiệm đến cùng với dự án Luật do mình trình
Thứ trưởng có thể chia sẻ rõ hơn quy định về việc tham vấn chính sách trong dự thảo Luật?
Vấn đề tham vấn chính sách là vấn đề mới được quy định trong dự thảo Luật. Ban soạn thảo đã nghiên cứu những giải pháp để thúc đẩy chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trong đó “chính sách phải ra chính sách”, "chính sách phải hợp với lòng dân", "chính sách có đúng, có trúng” thì quy phạm hóa chính sách thành đạo luật, thành văn bản luật mới có chất lượng.
Chính vì thế, trong dự thảo Luật lần này có quy định về tham vấn chính sách. Quy trình cho thấy: thứ nhất, việc làm chính sách đó không được phép khép kín; thứ hai, là xác định trách nhiệm của người làm chính sách phải kỹ lưỡng hơn, tôn trọng yếu tố khách quan hơn; thứ ba, tôn trọng các chủ thể, các đối tượng có sự tác động, các cơ quan liên quan có nhiều thông tin, có trách nhiệm về vấn đề định đề cập chính sách, để thu thập thông tin, chia sẻ thông tin, đồng nhất các quan điểm, từ đó sẽ có nhận thức để chỉ ra đâu là giải pháp tối ưu để giải quyết những mục tiêu chính sách.
Vấn đề tham vấn chính sách được các nước làm rất phổ biến, ở Việt Nam đến nay vấn đề này mới được quy định chính thức trong dự thảo Luật. Tôi cho rằng đây là một quy định mới, rất thực tiễn và thể hiện tính ưu việt, đòi hỏi sự nỗ lực, quyết tâm của cơ quan nghiên cứu chính sách trong triển khai tới đây. Từ đó, chính sách sẽ thực sự trở thành những giải pháp hợp lòng dân, phù hợp với các mục tiêu phát triển, tạo ra sự đồng thuận, tạo thuận lợi trong việc thu hút mọi nguồn lực trong Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp. Quy định pháp luật được ban hành sẽ phù hợp với “ý Đảng, lòng dân” và phát huy sự điều chỉnh trong đời sống xã hội.
Có ý kiến quan tâm đến nội dung “cơ quan trình dự án luật chịu trách nhiệm đến cùng đối với dự án luật do mình trình”, Thứ trưởng có thể nói rõ hơn về quy định này tại dự thảo Luật?
Dự thảo Luật Ban hành VBQPPL (sửa đổi) quy định cơ quan trình chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan thẩm tra và các cơ quan có liên quan trong việc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội để chỉnh lý dự thảo luật. Quy định này nhằm phân định rõ vai trò, nhiệm vụ cũng như tăng cường cơ chế phối hợp giữa của cơ quan trình, cơ quan thẩm tra và Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong quá trình trình, thẩm tra, cho ý kiến, chỉnh lý, hoàn thiện dự án luật.
Cơ quan trình chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với cơ quan thẩm tra nghiên cứu, tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo luật theo ý kiến của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cơ quan soạn thảo văn bản là phải chịu trách nhiệm về chất lượng văn bản quy phạm pháp luật;
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội là cơ quan thẩm tra (thẩm tra dự án luật khi được trình sang Quốc hội và cho ý kiến đối với báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo của cơ quan trình);
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến dự án luật trước khi trình ra Quốc hội và cho ý kiến đối với Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo.
Quy định tại dự thảo Luật nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ thông qua việc xác định "trách nhiệm xuyên suốt" quá trình xây dựng dự án Luật của cơ quan soạn thảo từ khâu nghiên cứu chính sách đến đề xuất, soạn thảo, trình và chỉnh lý dự thảo; đồng thời, bảo đảm sự gắn kết với khâu tổ chức thực hiện văn bản sau khi được Quốc hội thông qua.
Tôi cho rằng đây là giải pháp căn bản, quan trọng để nâng cao chất lượng thể chế trong thời gian tới.
Xin cảm ơn ông!
Hoàng An
Nguồn Tiền Phong : https://tienphong.vn/thu-truong-bo-tu-phap-du-an-luat-ban-hanh-van-ban-quy-pham-phap-luat-dac-biet-quan-trong-post1716232.tpo