Thủ tướng được quyền áp dụng các biện pháp luật chưa quy định trong tình trạng khẩn cấp

Thủ tướng được quyền áp dụng các biện pháp luật chưa quy định trong tình trạng khẩn cấp
2 giờ trướcBài gốc
Chiều 3/12, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, với 419 đại biểu Quốc hội có mặt tham gia biểu quyết tán thành (chiếm 88,58% tổng số đại biểu), Quốc hội thông qua Luật Tình trạng khẩn cấp. Luật có hiệu lực từ ngày 1/7/2016.
Luật Tình trạng khẩn cấp gồm 6 chương, 36 điều quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban bố công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp; tổ chức thi hành nghị quyết, lệnh về tình trạng khẩn cấp; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tình trạng khẩn cấp.
Quốc hội thông qua Luật Tình trạng khẩn cấp. (Ảnh: DUY LINH)
Về thẩm quyền, trình tự ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp, Luật quy định rõ:
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp. Căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp, Chủ tịch nước ra lệnh công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp.
Trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, Chủ tịch nước ra lệnh công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp.
Thủ tướng Chính phủ đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được thì đề nghị Chủ tịch nước ra lệnh công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp.
Tình trạng khẩn cấp được bãi bỏ khi không còn nguy cơ xảy ra thảm họa hoặc thảm họa đã được ngăn chặn, khắc phục; tình hình quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội đã ổn định.
Về thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ trong trường hợp khẩn cấp, Luật quy định: Nếu thật cần thiết, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, tính mạng, sức khỏe của người dân, sau khi được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền, Thủ tướng Chính phủ có quyền quyết định áp dụng các biện pháp mà pháp luật chưa quy định để ứng phó, khắc phục tình trạng khẩn cấp, hoặc áp dụng các biện pháp quy định trong luật này khi chưa ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp.
Thủ tướng Chính phủ sẽ báo cáo việc áp dụng các biện pháp này với cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong thời gian gần nhất.
Đại biểu Quốc hội làm việc tại hội trường. (Ảnh: DUY LINH)
Nhà nước có chính sách hỗ trợ về tài chính, thuế, phí, lệ phí, tín dụng, đầu tư, sản xuất, kinh doanh, lao động, việc làm, xuất cảnh, nhập cảnh, an sinh xã hội nhằm nhanh chóng khôi phục sản xuất, ổn định đời sống của người dân và hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
Đối tượng được hỗ trợ bao gồm cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng trực tiếp bởi tình trạng khẩn cấp.
Đối với chính sách thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định trước khi thực hiện; trong trường hợp cấp thiết, Chính phủ quyết định áp dụng các chính sách và báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong thời gian gần nhất.
Luật đồng thời quy định rõ các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp khi có thảm họa; các biện pháp khắc phục hậu quả trong tình trạng khẩn cấp; thống kê, đánh giá thiệt hại; huy động, quyên góp và phân bổ nguồn lực cứu trợ, hỗ trợ…
Điều 2. Tình trạng khẩn cấp
1. Tình trạng khẩn cấp là trạng thái xã hội được cấp có thẩm quyền ban bố, công bố tình trạng khẩn cấp tại một hay nhiều địa phương hoặc trên phạm vi cả nước khi có thảm họa hoặc nguy cơ xảy ra thảm họa đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người, tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân hoặc có tình hình đe dọa nghiêm trọng đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
2. Tình trạng khẩn cấp bao gồm: a) Tình trạng khẩn cấp về thảm họa; b) Tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; c) Tình trạng khẩn cấp về quốc phòng.
VY ANH
Nguồn Nhân Dân : https://nhandan.vn/thu-tuong-duoc-quyen-ap-dung-cac-bien-phap-luat-chua-quy-dinh-trong-tinh-trang-khan-cap-post927645.html