Thế nào là “vừa và nhỏ”?
Kinh tế tư nhân luôn là một khu vực hấp dẫn khi các quốc gia đang cân nhắc đi tìm một đòn bẩy tăng trưởng đích thực, nhưng ở Việt Nam, chúng ta đang thiếu điều gì để tạo ra bước nhảy vọt từ đó?
Năm 1970, có 8 trường đại học Mỹ cung cấp khóa học về khởi nghiệp; đến năm 1980, con số này đã là 137. Các tạp chí chuyên viết về khởi nghiệp mọc lên như nấm. Và được xem là một khu vực được tôn trọng tuyệt đối ở Hoa Kỳ trong giai đoạn này, kinh tế tư nhân đã thúc đẩy họ đi đến những mốc tăng trưởng thần kỳ.
Một khoảnh khắc quan trọng về quan niệm tôn vinh doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ diễn ra vào năm 1978: nhà kinh tế học David Birch tuyên bố trước Quốc hội rằng các doanh nghiệp nhỏ đã chiếm 80% tất cả các cơ hội việc làm mới giữa năm 1968 và 1976. “Doanh nghiệp nhỏ tạo ra tám trong số mỗi 10 việc làm mới”, Richard Lesher, Chủ tịch tổ chức vận động thương mại lớn nhất, Phòng Thương mại Hoa Kỳ, cho biết.
Như nhiều biểu tượng mạnh mẽ khác, doanh nghiệp nhỏ nổi tiếng khó định nghĩa. Nhưng có một phần rất quan trọng của định nghĩa này có lẽ đã thực sự tạo ra sức mạnh vô biên của kinh tế tư nhân Hoa Kỳ.
Ngày nay, để đủ điều kiện vay tiền từ SBA (Cơ quan doanh nghiệp nhỏ), các nhà sản xuất Hoa Kỳ phải có dưới 500 nhân viên, và các công ty không thuộc ngành sản xuất phải có doanh thu hàng năm dưới 7,5 triệu USD (mặc dù chính phủ vẫn giữ quyền đưa ra các ngoại lệ).
Các chi tiết này cũng không khác Việt Nam. Theo điều 4 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, nguyên tắc chung để xác định một doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau: Doanh nghiệp có số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bình quân không quá 200 người và đáp ứng một trong hai tiêu chí: 1) Tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng; 2) Tổng doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng.
Nhưng có một khác biệt quan trọng khác có lẽ đã thực sự tạo ra sức mạnh vô biên của kinh tế tư nhân Hoa Kỳ: ngay từ khi mới thành lập Cơ quan Doanh nghiệp nhỏ (SBA) vào năm 1953, chính phủ Hoa Kỳ đã định nghĩa chính thức một doanh nghiệp nhỏ là “sở hữu và vận hành độc lập và… “Không chiếm ưu thế trong lĩnh vực hoạt động của nó”.
Tại sao phải “không chiếm ưu thế”? Vì đơn giản là với bất kỳ quy mô nào, một doanh nghiệp cũng đều có thể không còn là “vừa và nhỏ” nữa, vì những ưu thế vô hình của nó, ngoài số lượng nhân viên và vốn điều lệ.
Ưu thế không chỉ là tiền bạc, mà còn là quan hệ, thứ mà chúng ta không thể chỉ nhìn vào số lượng nhân viên: hãy thử gõ vào Google “công ty chỉ có một nhân viên vẫn trúng thầu”, bạn sẽ giật mình vì số kết quả trả về không hề ít ở Việt Nam.
Khu vực doanh nghiệp tư nhân có đăng ký chính thức, nơi đã từng là khởi đầu cho các cuộc cách mạng công nghiệp trên thế giới, hiện chỉ chiếm 10% GDP của Việt Nam, có lẽ vì số lượng những công ty “tay không bắt giặc” hiển thị trên Google kiểu như vậy.
Trên hình thức, rất nhiều trong số đó là các nhà khởi nghiệp mới bắt đầu gia nhập thị trường dưới dạng vừa và siêu nhỏ, theo định nghĩa của Luật doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng trong thực tế, nó đã là một doanh nghiệp “siêu to khổng lồ” từ trong trứng nước, không phải bằng năng lực, mà bằng quan hệ.
Tức là định nghĩa của chúng ta hoàn toàn chỉ tập trung vào số lượng và kích cỡ vốn, trong khi một lối đi tắt nào đó vẫn đã và đang được tạo ra và làm biến dạng số phận của một doanh nghiệp đi lên bằng quan hệ thuần túy ngay từ ngày đầu thành lập: đây không phải một tế bào của nền kinh tế thị trường. Đấy thậm chí là ung nhọt. Vì sao? Nó đã được trao cho ưu thế trong thị trường ngay từ khi khai sinh.
Những đại án như vụ chuyến bay giải cứu và gói thầu thời COVID-19 cho thấy rằng ngay cả trong những bối cảnh rất đặc biệt, thì dùng quan hệ để đi lên vẫn là một lựa chọn hấp dẫn ra sao. Thật may là những doanh nghiệp kiểu vậy đã phải trả giá. Vì chúng đại diện cho lối tắt sẽ tàn phá đất nước, không chỉ bằng các hệ lụy vật chất thực tế, mà còn là một lối tư duy: anh không cần phải cạnh tranh trong một thị trường tự do để lớn lên. Anh chỉ cần giỏi luồn lách và tìm ra những quan chức tham nhũng.
Con số chỉ 10% GDP đến từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ có đăng ký chính thức cho thấy rằng tiềm năng ở khu vực kinh tế tư nhân của chúng ta đang lớn đến cỡ nào, nhưng để khai phá được tỉ lệ này, ngoài việc trừng phạt những kẻ đã phá luật, thì một môi trường cạnh tranh đủ năng động và công bằng là điều rất quan trọng: những doanh nghiệp được xếp hạng vừa và nhỏ không thể chiếm ưu thế trong lĩnh vực của họ.
Nếu không, anh phải được xếp sang một loại khác. Ở khu vực tư nhân, sự bất bình đẳng tại xuất phát điểm sẽ hủy diệt mọi thứ: người ta sẽ cố gắng giành lấy xuất phát điểm tốt hơn, thậm chí bằng thủ đoạn, thay vì nỗ lực đối chọi với rủi ro lành mạnh của thị trường tự do. Cụm từ “vừa và nhỏ” không chỉ có ý nghĩa về mặt kích cỡ, mà còn phải bao hàm trong đó cả một môi trường đủ cạnh tranh được tạo ra từ sự đối xử công bằng.
Phạm An
Giải bài toán biết trước kết quả
Thúc đẩy kinh tế tư nhân phải thông qua việc thực hiện mục tiêu của chính họ - chứ không phải thực hiện mục tiêu định sẵn của nhà nước.
“Không cần làm điều tra thị trường. Khách hàng không biết điều gì là có thể. Chúng tôi thì biết”, cựu Tổng giám đốc Sony Akio Morita nói. Câu nói này được các bậc thầy quản trị như Philip Kotler trích dẫn lại nhiều lần, để khẳng định rằng nghĩa vụ đổi mới sáng tạo vẫn nằm trong tay doanh nghiệp. Khách hàng, hay là thị trường nói chung không thể nói cho doanh nghiệp biết họ cần làm gì.
Trong thập kỷ 80, khách hàng đã không nói rằng họ cần “một chiếc cátsét có thể bỏ vào túi quần” (Sony thì biết điều đó là có thể và tạo ra máy Walkman); họ cũng không nói rằng mình “cần một chiếc điện thoại không có dây” (chỉ Motorola mới biết điều đó khả thi); họ cũng không nói rằng mình muốn “cà phê uống liền dạng viên nén” (Nestle mới biết). Hẳn nhiên, không khách hàng Việt Nam nào trong thập kỷ 90 giơ tay đòi nhà nước và doanh nghiệp phải sản xuất ra phở ăn liền. Vifon cũng không cần đến một khảo sát như vậy để tạo ra một dòng sản phẩm định hình thị trường.
Nghĩa vụ đổi mới sáng tạo, và qua đó là khả năng phục vụ thị trường, nằm trong tay doanh nghiệp. Chúng ta tạm gọi đây là mô hình Từ trong ra: 1. Doanh nghiệp thực hiện đổi mới sáng tạo; 2. Sản phẩm mới, nhu cầu mới, thị trường mới được ra đời.
Nhưng các chương trình đòi hỏi nỗ lực đổi mới sáng tạo tại Việt Nam lại tạo ra một ấn tượng chung: nhà nước quy định kết quả đầu ra, còn tạo ra kết quả đó là… ai cũng được.
Hãy nhìn kỹ vào Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP). Đó là một chương trình với nhiều điểm sáng, hàng nghìn sản phẩm được làm thương hiệu tập thể, được thúc đẩy quảng bá bởi chính quyền địa phương. Nhưng nó cũng rất nhiều hạn chế: “hàng loạt sản phẩm được xây dựng, chạy theo các tiêu chí thậm chí gượng ép để đạt chứng nhận” (trích từ bài viết của VOV); “sản phẩm sản xuất chủ yếu là thủ công, việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế nên sức cạnh tranh trên thị trường còn thấp, giá thành cao” (Cổng thông tin huyện Diễn Châu); “sản phẩm trùng lắp, khó tiêu thụ” (báo Quân đội nhân dân); “phần lớn sản phẩm được sản xuất theo phương thức thủ công, chất lượng, quy cách mẫu mã còn hạn chế, thiếu sức cạnh tranh trên thị trường” (báo Nhân Dân).
Trong chương trình này, các nhà ban hành đã đặt vấn đề Từ ngoài vào: 1. Xác định, quy hoạch sản phẩm (bởi chính quyền); 2. Hỗ trợ bất kỳ bên nào thực hiện được các sản phẩm này.
Ở bước một, chương trình quy định trách nhiệm của các UBND tỉnh, thành phố là phải chỉ đạo, xây dựng kế hoạch thực hiện OCOP, và cũng gợi ý luôn là các sản phẩm này “tập trung ưu tiên phát triển các sản phẩm đặc sản, sản phẩm truyền thống gắn với lợi thế về điều kiện sản xuất, văn hóa của địa phương”. Tức là xây dựng kế hoạch dựa trên dữ liệu sẵn có. Kết quả là nhiều sản phẩm hoàn toàn không có hàm lượng đổi mới sáng tạo được “vơ” vào chương trình (vì thực tiễn địa phương chỉ có vậy). Củ lạc, củ khoai, con tôm khô mà bà con vốn đang sản xuất được gắn mác OCOP và đem đi xúc tiến thương mại.
Ở bước hai, chương trình xác định chủ thể thực hiện kế hoạch này, riêng với sản xuất, là “Các hợp tác xã, tổ hợp tác, doanh nghiệp nhỏ và vừa, trang trại và hộ sản xuất có đăng ký kinh doanh”. Nói chung là bất kỳ ai mà pháp luật cho phép sản xuất hàng hóa.
Và kết quả, chúng ta có “phần lớn sản xuất theo phương pháp thủ công, chất lượng, quy cách mẫu mã còn hạn chế”.
Cần nhấn mạnh rằng OCOP, trong một chương trình xúc tiến và quảng bá, đã tạo ra tiếng vang. Nhưng bởi nó được thực hiện theo mô hình “Từ ngoài vào”, chính quyền tìm sản phẩm trước rồi nghĩ chủ thể sau, nên OCOP sẽ không thể có lợi thế của mô hình “Từ trong ra”.
Nôm na, không ai biết tiềm năng đổi mới sáng tạo của các sản phẩm này có thể là gì. Khi chúng ta đã chọn cứng “lạc Diễn Châu” hay “dưa lưới Yên Dũng” là sản phẩm, ta bỏ qua cơ hội làm cách mạng chế biến với củ lạc và quả dưa. Ta bỏ qua cả một thị trường rộng lớn của những-sản-phẩm-chưa-ra-đời. Điều đó chỉ có thể được tạo ra bằng việc đầu tư cụ thể, trực tiếp cho chủ thể doanh nghiệp – bằng nguồn tài trợ vốn tài chính và vốn tri thức. Hoặc rộng hơn, khi xác định được các hợp tác xã hoặc hộ cá thể có tiềm năng, ta cần tài trợ để họ trở thành các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, thay vì hài lòng với những củ lạc bóc sẵn có thể gắn mác OCOP cho đủ chỉ tiêu. Ta không thể giải một bài toán biết rằng kết quả của bài toán đó là X được.
Cuộc cạnh tranh trong thế giới phẳng là cuộc cạnh tranh của những-sản-phẩm-chưa-ra-đời. Đảng và Chính phủ cũng đã xác định đổi mới sáng tạo là một nội dung tiên quyết trong phát triển kinh tế, thông qua nhiều văn bản. Nhưng để có được điều đó, chúng ta cần lộn ngược tư duy trong rất nhiều chương trình phát triển kinh tế. Mỗi xã một sản phẩm chỉ là một ví dụ tiêu biểu cho cách tư duy “Giải toán biết trước kết quả”. Sao có thể bắt các cán bộ hành chính ở địa phương cầm ngọn cờ đổi mới sáng tạo trong sản xuất hàng hóa?
Đức Hoàng
Song hành giữa chính sách và nỗ lực tự thân
Nhắc đến thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, chắc chắn nhiều người sẽ quy về chung một mẫu số: hoàn thiện hành lang chính sách để tạo thuận lợi nhất cho khu vực này. Song, chỉ mình hành lang chính sách là chưa đủ. Chính khu vực tư nhân phải nỗ lực tự thân để song hành với chính sách, ngõ hầu tạo ra những kết quả tốt đẹp nhất.
Hãy nhìn vào một việc rất nhỏ mà phải mất rất nhiều năm chúng ta mới bắt đầu thí điểm thực hành là chuyện cho thuê vỉa hè. Hiện nay, đã có một số cấp chính quyền cơ sở ở các đô thị lớn thí điểm cho thuê vỉa hè. Điển hình là một số phường ở quận 1, TP Hồ Chí Minh như phường Nguyễn Thái Bình, phường Nguyễn Cư Trinh…
Trên đường Nguyễn Công Trứ, phường Nguyễn Thái Bình, ngay góc được xem là “phố Wall Việt Nam”, giá cho thuê vỉa hè được tính theo mét vuông. Mỗi chủ cơ sở kinh doanh đều được quyền thuê 1,5m dài vỉa hè (tính từ cửa) và bề rộng bằng chiều ngang mặt tiền. Giá thuê mỗi tháng là 100.000 đồng/m2, người thuê chỉ việc quét mã QR thanh toán nguyên một năm. Một chủ cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống ở đây đã trả 7,2 triệu đồng cho 6m2 vỉa hè cho 12 tháng, tính từ thời điểm thuê. Thủ tục gọn nhẹ, đa phần là qua ứng dụng số. Người thuê chỉ cần cung cấp giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng thuê nhà hợp pháp cùng đăng ký kinh doanh là đủ.
Tuy thí điểm này vẫn còn rất nhiều điểm cần hiệu chỉnh như quy định về vệ sinh, an toàn, quy định về PCCC, đăng ký mẫu thiết kế các vật dụng trưng bày ngoài vỉa hè (để đảm bảo mỹ quan đô thị) và các trách nhiệm ràng buộc cũng như các chế tài khi vi phạm… nhưng rõ ràng, doanh thu mang lại không nhỏ chút nào. Và nếu điều chỉnh cách tính giá giống như nước ngoài là ngoài việc tính theo mét vuông, có thể tính theo số lượng bàn ghế bày ra ngoài vỉa hè (đối với dịch vụ ăn uống), doanh thu từ vỉa hè sẽ còn có thể cao hơn nữa. Nhưng điều đáng nói hơn cả là tất cả các hộ kinh doanh cần sử dụng vỉa hè đều sẵn lòng ký hợp đồng thuê với sự hồ hởi. Họ thích được kinh doanh hợp pháp và khi mức giá phù hợp khả năng tài chính của mô hình kinh doanh, họ không ngại mất thêm chút chi phí chính đáng để khai thác vỉa hè. Ước tính, trục đường Nguyễn Công Trứ có khoảng hơn 100 hộ kinh doanh thuê vỉa hè và nếu khảo sát kỹ cả phường Nguyễn Thái Bình, con số hộ thuê vỉa hè phải lên tới hàng ngàn. Nếu nhân lên với số phường có vỉa hè có thể khai thác kinh doanh dịch vụ, chúng ta sẽ nhận thấy con số mà TP Hồ Chí Minh có thể thu về là rất lớn, có thể lên tới hàng ngàn tỷ đồng mỗi năm.
Theo như thống kê, trước dịch COVID-19, nguồn thu từ cho thuê vỉa hè ở Paris (thành phố khai thác vỉa hè tốt nhất thế giới) chiếm 15% GDP của cả thành phố (GDP của Paris chiếm 30% GDP nước Pháp và ngang bằng GDP của cả Hà Lan). Tính đến năm 2021, GDP của Paris đã chiếm 32% trong tổng GDP của Pháp. Kinh tế Paris chủ yếu là thương mại và dịch vụ, chỉ có 6,5% doanh nghiệp hoạt động trong ngành xây dựng và 3,8% hoạt động trong ngành công nghiệp mà thôi. Sở dĩ, GDP thương mại và dịch vụ của Paris chiếm tỷ lệ cao đến mức như vậy là bởi Paris là một thành phố của du lịch. Và Hà Nội, TP Hồ Chí Minh phần nào cũng có nét tương đồng ấy. Rõ ràng, hai đô thị du lịch hút khách ở Việt Nam vẫn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Từ câu chuyện này, cùng với ví dụ nhỏ ở trên, chúng ta có thể thấy, sức mạnh từ kinh tế tư nhân có tiềm năng lớn đến mức nào.
Trong khi đó, thống kê gần nhất cho thấy, doanh nghiệp tư nhân (bao gồm doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể) mới chỉ đóng góp 10% vào tổng GDP quốc gia. Kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp 45% trong tổng GDP quốc gia và tỷ trọng này mở ra một vấn đề rất đáng quan tâm: phải thúc đẩy hơn nữa thành phần kinh tế tư nhân, mà ở đó, các hộ kinh doanh cá thể, hợp tác xã nên được xem là trọng tâm lớn.
Trong đợt sắp xếp lại bộ máy để “Tinh - gọn - mạnh” này, chắc chắn sẽ có không ít cán bộ, công chức xin nghỉ hưu sớm và chính họ sẽ là một lực lượng mới bổ sung mạnh mẽ vào thành phần hộ kinh doanh cá thể. Con đường chung nhất mà nhiều người hiện nay luôn nghĩ tới khi kinh doanh cá thể vẫn luôn có mẫu số chung phản ảnh đúng nhu cầu xã hội. Họ, hoặc là sẽ đầu tư tài chính (chứng khoán), bất động sản, hoặc kinh doanh dịch vụ, hoặc buôn bán online… Mẫu số chung đó đứng trước một thách thức rất lớn. Đó chính là mô hình rập khuôn nhau, rủi ro thất bại lớn khi thiếu tính cá nhân hóa, tính đặc sắc. Thách thức này đòi hỏi một quá trình nỗ lực tự thân của chính các cá nhân kinh doanh chứ không phải là vấn đề của chính sách nhà nước.
Trong khi đó, ở lĩnh vực sản xuất, thực tế cho thấy Việt Nam chưa tạo được thế mạnh rõ rệt. Nhìn lại bức tranh kinh tế nhiều năm qua, chúng ta thấy rất rõ đa số các doanh nghiệp hoạt động ở lĩnh vực tài chính, bất động sản, thị trường bán lẻ, xây dựng… nhiều hơn là sản xuất. Sự khó khăn của sản xuất đến từ chính tư duy ngại cạnh tranh trực tiếp với hàng nhập khẩu vốn dĩ đã và vẫn thắng thế về chất lượng cũng như giá cả. Song, điều đó không có nghĩa là chúng ta không còn dư địa nào ở sân chơi lớn này. Nếu nhìn vào sức sống của những thương hiệu rất cũ như Miliket, Vifon, Thorakao…, chúng ta có thể hiểu rằng nếu một sản phẩm được xây dựng chặt chẽ từ khâu nghiên cứu đối tượng khách hàng mục tiêu, sản phẩm ấy hoàn toàn có thể chinh phục người tiêu dùng nội địa. Cái khó nằm ở chính sự loay hoay của rất nhiều doanh nghiệp tư nhân trong việc xác định khách hàng mục tiêu ngay từ ban đầu. Đa phần vẫn muốn hướng đến xuất khẩu trong khi lại bỏ trống thị trường nội địa cho hàng ngoại nhập thao túng.
Trách nhiệm của chính các doanh nghiệp tư nhân ở đây là không nhỏ chút nào. Nó không chỉ là câu chuyện của kinh doanh đơn thuần mà còn là câu chuyện của tinh thần quốc gia.
Trước khi nghĩ tới đòi hỏi các hành lang chính sách hỗ trợ, doanh nghiệp tư nhân phải tự vận động để tồn tại bền chắc trong lòng người tiêu dùng của mình. Sự song hành này mới chính là nền tảng cho phát triển và cho cả ước mơ tăng trưởng 2 con số.
Hà Quang Minh