PV Tiền Phong đã có cuộc trao đổi với Tổng Giám đốc Vinatex để làm rõ câu chuyện này.
Đơn hàng, lợi nhuận đều suy giảm
Được biết, ông vừa có chuyến công tác tại châu Âu để tìm hiểu một số đối tác mới, xin ông cho biết, tình hình nhu cầu của ngành dệt may hiện nay?
Có thể nói, thị trường dệt may vẫn đang còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Câu chuyện này không phải bây giờ mới có mà ngay từ khi đại dịch COVID-19 đến giờ, hàng loạt biến động về địa chính trị, xung đột…. đã khiến nhu cầu dệt may suy giảm rất nhiều. Đến nay thị trường vẫn chưa thể hồi phục lại được như giai đoạn trước đại dịch.
Tuy nhiên trong bức tranh đó, thị trường cũng có một số điểm sáng như kinh tế châu Âu, đặc biệt là kinh tế Mỹ đang có dấu hiệu hồi phục. Đặc biệt chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc có xu hướng hạ nhiệt giúp nhu cầu của người dân bắt đầu tăng trở lại. Mối lo nhất hiện nay với các doanh nghiệp xuất khẩu, trong đó có ngành dệt may vừa qua, Tổng thống Donald Trump công bố áp thuế đối ứng với các mặt hàng xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Điều này đang khiến nhu cầu dệt may giảm sút rất rõ rệt.
Ông Cao Hữu Hiếu Tổng giám đốc Vinatex Ảnh: Hoàng Mạnh Thắng
Theo đánh giá của chúng tôi, trong những tháng cuối năm nay, nhu cầu dệt may ở Mỹ dự báo sẽ giảm tương đối sâu, khoảng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là thách thức rất lớn vì hiện nay Mỹ là thị trường tiêu thụ lớn nhất các sản phẩm dệt may của Việt Nam, với tỷ trọng chiếm hơn 40% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả ngành.
Ông có thể nói rõ hơn tác động về chính sách thuế quan của Mỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp dệt may nói chung, và của Vinatex nói riêng?
Ngay từ khi Tổng thống Donald Trump công bố áp thuế đối ứng 40% với hàng Việt, các doanh nghiệp mới nghe đã thấy choáng váng. Sau quá trình đàm phán giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Mỹ, mức thuế đã giảm xuống còn 20% (trên nền thuế tối huệ quốc MFN sẵn có). Tác động tiêu cực đầu tiên có thể thấy là tâm lý của người tiêu dùng bị ảnh hưởng, dẫn đến nhu cầu đối với ngành dệt may suy giảm.
Trong 9 tháng năm nay, tác động của thuế quan chưa ảnh hưởng nhiều do khách hàng vẫn chạy đua thời gian để đặt hàng cho kịp trước chính sách thuế quan có hiệu lực. Nhưng đến thời điểm này, đơn hàng từ thị trường Mỹ đã sụt giảm mạnh. Số lượng đơn hàng cũng rất nhỏ lẻ, yêu cầu rất khắt khe về kỹ thuật, thời gian giao hàng nhanh, đồng thời giá gia công giảm theo. Lý do rất đơn giản là các nhà đặt hàng đều yêu cầu nhà sản xuất phải chia sẻ mức thuế 20% với họ và như vậy các doanh nghiệp đều giảm ngay biên lợi nhuận.
Những “tử huyệt” buộc ngành dệt may thay đổi
Ngoài tác động yếu tố bên ngoài, với ngành dệt may đang còn phải đối diện với những thách thức nào, thưa ông?
Hiện nay dệt may là ngành xuất khẩu đóng góp kim ngạch xuất khẩu tương đối lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Năm ngoái, xuất khẩu dệt may của nước ta đạt khoảng 44 tỷ USD, và năm nay chúng tôi dự báo kim ngạch có thể đạt được khoảng 47- 48 tỷ USD, dù ngành đang đối diện với nhiều thách thức.
Theo lãnh đạo Vinatex, dệt may Việt Nam sắp tới phải cạnh tranh chất lượng, tốc độ và công nghệ
Tuy nhiên, để đạt được con số đó, hiện nay chúng ta phải nhập khẩu tương đối lớn nguyên phụ liệu. Điển hình như nguyên liệu cho ngành sợi là bông và xơ, chúng ta nhập khẩu 100 % bông và 90-95% xơ. Ở trong nước hiện nay mới chỉ có một nhà cung cấp các loại xơ nhân tạo; cùng đó là hóa chất, thuốc nhuộm vẫn chưa sản xuất được…
Sự phụ thuộc phần lớn vào nguyên liệu nhập khẩu buộc ngành dệt may phải thay đổi
Đây chính là một “tử huyệt” của dệt may Việt Nam khi sắp tới đây thuế quan Mỹ bắt đầu “ngấm” dần, các doanh nghiệp sẽ rất đau đầu và buộc chúng ta cần thay đổi. Bởi theo yêu cầu của phía Mỹ, có thể sẽ có “kịch bản” đánh thuế cao hơn với những sản phẩm có yếu tố trung chuyển, tức là sản phẩm phải có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, hoặc từ Việt Nam sản xuất.
Điều này bắt buộc các doanh nghiệp dệt may trong nước phải gia tăng tỷ lệ nội địa hóa đối với nguồn nguyên phụ liệu: từ bông, xơ cho tới các mặt hàng vải thành phẩm. Tôi cho rằng, có thể phía Mỹ lo ngại “làn sóng” đơn hàng dịch chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam để “lẩn tránh” về nguồn gốc. Điều này các doanh nghiệp cần phải tỉnh táo để tránh những “đòn” trừng phạt cao hơn từ phía Mỹ.
Vinatex đang nghiên cứu và đưa vào sản xuất nhiều dòng sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao: Vải chống cháy, khăn cao cấp cho khách sạn, resort, sản phẩm từ nguyên liệu đặc biệt như sợi đậu nành… Những sản phẩm tuy không mới với thế giới, nhưng mở ra một phân khúc khác biệt, khẳng định vị thế dệt may cao cấp Việt Nam trên bản đồ quốc tế. Năm 2025 là bản lề, quyết định hướng đi trong kỷ nguyên mới. Ngành dệt may Việt Nam không thể dựa vào lợi thế lao động giá rẻ nữa. Chúng tôi sẽ phát triển cạnh tranh bằng chất lượng, uy tín, tốc độ và công nghệ.
Điểm thứ hai, tôi nghĩ đây là câu chuyện muôn thuở của ngành dệt may, đó là công tác phát triển thương hiệu. Việc quảng bá thương hiệu dệt may của Việt Nam, đặc biệt là khâu đào tạo được đội ngũ thiết kế, phải nói là chúng ta còn rất yếu.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, bất kỳ thương hiệu lớn nào cũng đều đi song hành với một đội ngũ thiết kế mạnh. Họ không chỉ giỏi về kỹ thuật mà còn có khả năng định hình phong cách, tạo ra bản sắc cho thương hiệu. Xây dựng thương hiệu là một quá trình rất dài, phải kiên trì và đầu tư liên tục thì mới hình thành được.
Nhưng thực tế hiện nay, các thương hiệu thời trang của người Việt còn quá nhỏ bé, ở vào giai đoạn sơ khai, điều kiện cũng rất khó khăn. Trong khi đó, các thương hiệu quốc tế đã hiện diện ở Việt Nam rất nhiều, với quy mô và sức mạnh vượt trội, khiến chúng ta gần như bị lép vế ngay trên sân nhà.
Ngoài ra, câu chuyện về năng suất lao động và tự động hóa trong sản xuất là vấn đề nan giải với ngành dệt may hiện nay. So với một số nước trong khu vực, chúng ta có những mặt đã tiến bộ hơn, nhưng nếu so với năng suất bình quân của khu vực châu Á hay châu Âu, Việt Nam vẫn chỉ đang ở mức trung bình.
Rõ ràng nếu chúng ta không nâng năng suất tổng hợp lên nữa, bằng việc đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại, áp dụng tự động hóa một cách mạnh mẽ, thì sẽ rất khó để cạnh tranh với các quốc gia xuất khẩu dệt may khác trong khu vực cũng như trên thế giới.
Trong thời gian tới, Vinatex xác định rất rõ chiến lược của mình: Đó là trở thành nhà cung cấp trọn gói cho khách hàng để trở thành “Một điểm đến – cung cấp giải pháp trọn gói về dệt may và thời trang Xanh”. Có nghĩa là khi khách hàng đến với chúng tôi sẽ có đầy đủ mọi thứ, từ nguyên liệu đầu vào là sợi, vải, cho đến sản phẩm may mặc hoàn chỉnh. Trọng tâm phát triển sẽ là các sản phẩm xanh, tái chế, tuần hoàn… đây sẽ là hướng đi ưu tiên hàng đầu.
Nhìn lại chặng đường nhiều thách thức vừa qua và những cơ hội đang mở ra phía trước, ông muốn gửi gắm điều gì tới các doanh nhân ngành dệt may nói riêng và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam nói chung?
Trong bối cảnh đất nước và thế giới có nhiều thay đổi sâu sắc, có thể nói điều hành một đơn vị với 63.000 lao động, tôi thực sự thấu hiểu và hết sức đồng cảm với các đồng nghiệp, các doanh nhân trong hệ thống tập đoàn, đặc biệt là trong giai đoạn thị trường khó khăn vừa qua.
Xây dựng thương hiệu là một quá trình rất dài, phải kiên trì và đầu tư liên tục thì mới hình thành được. Nhưng thực tế hiện nay, các thương hiệu thời trang của người Việt còn quá nhỏ bé, ở vào giai đoạn sơ khai, điều kiện cũng rất khó khăn. Trong khi đó, các thương hiệu quốc tế đã hiện diện ở Việt Nam rất nhiều, với quy mô và sức mạnh vượt trội, khiến chúng ta gần như bị lép vế ngay trên sân nhà.
Phải nói rằng, đó là những thời điểm vô cùng khắc nghiệt. Tôi rất trân trọng những hy sinh, vất vả mà các anh chị đã và đang trải qua.
Có những cống hiến rất thầm lặng, không thể diễn tả bằng lời, và cũng có những thành công không thể đo đếm bằng thành tích trên bảng số liệu. Nhưng chính nhờ sự bền bỉ đó, Tập đoàn Dệt may Việt Nam mới có được thành công suốt 30 năm qua.
Phải nói, có lẽ chưa bao giờ doanh nhân Việt Nam lại có nhiều cơ hội phát triển như hiện nay, khi Đảng và Nhà nước có nhiều cơ chế, chính sách cởi mở, coi trọng doanh nghiệp và doanh nhân đến như vậy. Nhất là “bộ tứ trụ cột” với 04 Nghị quyết đột phá, rộng cửa để nền kinh tế tư nhân phát triển.
Đây là thời điểm vàng để chúng ta đồng lòng, mỗi người một lĩnh vực, cùng chung tay góp phần đưa Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên giàu mạnh và hùng cường. Đó là mong muốn không chỉ của riêng tôi, mà là khát vọng chung của tất cả những ai đang làm kinh tế. Xin được gửi lời chúc mừng chân thành nhất tới toàn thể cộng đồng doanh nhân nhân ngày đặc biệt này.
PV