Các biện pháp thuế quan của chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump đang tác động lớn lên các trung tâm xuất khẩu dệt may tại châu Á.
Ngành dệt may Ấn Độ lao đao vì thuế quan
Trong số các trung tâm sản xuất dệt may tại châu Á, Ấn Độ là nước đối mặt với áp lực lớn hơn cả sau khi bị chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump áp mức thuế quan lên tới 50%.
Một số nhà xuất khẩu cho biết, các nhà bán lẻ lớn của Mỹ đã dừng các lô hàng và bắt đầu đàm phán lại với các doanh nghiệp dệt may nước này để ứng phó với tình hình. “Các thương hiệu đang trao đổi với chúng tôi để tìm giải pháp thay thế hoặc tìm xem chúng tôi có công suất bổ sung ở những khu vực có mức thuế quan thấp hơn hay không”, lãnh đạo công ty xuất khẩu hàng may mặc Gokaldas Exports chia sẻ.
Theo giới chuyên gia, mức thuế quan hiện tại vừa là áp lực nhưng cũng là động lực để các nhà xuất khẩu cố gắng cân đối giữa chi phí và giá bán để giữ chân khách hàng, đồng thời thúc đẩy chiến lược đa dạng hóa thị trường nhằm giảm rủi ro từ chính sách thuế quan Mỹ.
Một số nhà xuất khẩu Ấn Độ dự kiến đưa ra một số mức giảm giá để tránh tình trạng tồn kho tăng cao. Tuy nhiên, nhiều nhà xuất khẩu hàng dệt may và quần áo khác tại các bang Tiruppur, Noida và Surat cho biết sẽ tạm ngừng sản xuất các đơn hàng cho thị trường Mỹ với lý do tình trạng bất ổn gia tăng.
“Mức thuế tăng chắc chắn sẽ tác động đến xuất khẩu hàng dệt may và quần áo trong vòng 30-40 ngày tới, cho đến khi Ấn Độ đạt được một thỏa thuận thương mại song phương có lợi với Mỹ”, ông A. Sakthivel, Chủ tịch Hiệp hội các nhà xuất khẩu Tiruppur, đánh giá.
Ông Sanjay Jain, nguyên Chủ tịch Liên đoàn Công nghiệp Dệt may Ấn Độ (CITI), nhận định rằng tạm thời hoạt động xuất khẩu dệt may sang Mỹ sẽ gần như “đóng cửa”. “Sẽ không có đơn hàng mới. Đơn hàng cũ buộc phải giao với mức giá chịu lỗ. Chúng ta sẽ chứng kiến tình trạng thất nghiệp lớn trong những ngành thâm dụng lao động như dệt may và da”, ông cho biết.
Ấn Độ hiện là nước xuất khẩu hàng dệt may và may mặc lớn thứ sáu thế giới. Trong đó, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành dệt may Ấn Độ. Trong năm tài chính kết thúc vào tháng 3-2025 vừa qua, Mỹ chiếm 28% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may và may mặc trị giá 36,61 tỉ đô la của Ấn Độ. Mức thuế quan cao hơn dự kiến sẽ khiến chi phí tăng vọt và có thể dẫn đến mức sụt giảm 40-50% số đơn đặt hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ, gây thiệt hại khoảng 4-5 tỉ đô la.
Ông Sanjay Jain, nguyên Chủ tịch Liên đoàn Công nghiệp Dệt may Ấn Độ (CITI), nhận định rằng tạm thời hoạt động xuất khẩu dệt may sang Mỹ sẽ gần như “đóng cửa”. “Sẽ không có đơn hàng mới. Đơn hàng cũ buộc phải giao với mức giá chịu lỗ. Chúng ta sẽ chứng kiến tình trạng thất nghiệp lớn trong những ngành thâm dụng lao động như dệt may và da”, ông cho biết.
“Mức thuế 50% này sẽ làm tăng giá hàng may mặc của Ấn Độ thêm 30-35% so với các lựa chọn thay thế từ Bangladesh và Việt Nam”, ông Rahul Mehta, Cố vấn trưởng của Hiệp hội các nhà sản xuất quần áo Ấn Độ (đại diện cho khoảng 20.000 nhà sản xuất và xuất khẩu), nhận định. Theo ông, “khó ai có thể chấp nhận trả mức giá cao như vậy”.
Theo Văn phòng Dệt và May mặc (OTEXA), thuộc Bộ Thương mại Mỹ, từ chỗ tăng trưởng mạnh từ 15-25% trong ba tháng đầu năm nay, xuất khẩu dệt may của Ấn Độ sang Mỹ đã chịu tác động lớn kể từ tháng 4-2025, sau khi Mỹ công bố áp thuế. Trong tháng 6-2025, xuất khẩu hàng may mặc và dệt may của Ấn Độ sang Mỹ đã ghi nhận tháng giảm thứ ba liên tiếp, mặc dù vẫn tăng 3,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Áp lực dịu bớt với các nền kinh tế có mức thuế thấp
Mức thuế quan 50% đã làm giảm khả năng cạnh tranh của ngành dệt may và quần áo Ấn Độ so với Bangladesh, Việt Nam, Campuchia - những quốc gia chỉ phải chịu thuế nhập khẩu vào Mỹ thấp hơn nhiều. Mức thuế đối với Indonesia và Campuchia là 19%, Bangladesh và Việt Nam là 20%, trong khi Trung Quốc là 30%.
Theo OTEXA, trong bối cảnh xuất khẩu dệt may của Ấn Độ sang Mỹ giảm sút, Việt Nam và Bangladesh lại ghi nhận mức tăng trưởng mạnh trong xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ trong tháng 6-2025, lần lượt là 26,2% và 44,6% so với cùng kỳ năm ngoái.
Doanh nghiệp xuất khẩu tại nhiều quốc gia khác có mức thuế quan thấp hơn Ấn Độ cũng đang tạm thở phào nhẹ nhõm. Tại Campuchia, quốc gia được giảm thuế từ 36% xuống 19%, ngành dệt may được kỳ vọng sẽ thu hút thêm nhiều đơn hàng và nguồn vốn đầu tư mới.
“Với mức thuế suất 19%, nhiều chủ nhà máy vốn có ý định rời đi, giờ sẽ ở lại Campuchia, và tôi cũng kỳ vọng sẽ có thêm nhiều chủ nhà máy từ Trung Quốc chuyển sản xuất tới đây, bởi họ đang phải chịu mức thuế suất cao hơn”, ông Ath Thorn, Phó chủ tịch Liên minh Công đoàn dân chủ công nhân may mặc Campuchia, cho biết.
Còn tại Pakistan, các doanh nghiệp dệt may cũng tạm hài lòng với việc được giảm thuế từ 29% xuống còn 19%. Tuy nhiên, theo ông Temoor Mukaty, Giám đốc điều hành Liberty Mills Limited - một trong những công ty xuất khẩu dệt may lớn nhất Pakistan, lợi thế này cần phải được đặt trong cơ cấu chi phí tổng thể.
“Mức thuế 19% đưa Pakistan vào nhóm các đối tác thương mại của Mỹ có mức thuế quan cạnh tranh nhất. Tuy nhiên, hầu hết các đối tác thương mại lớn ở khu vực châu Á hiện nay đều có mức thuế tương tự, cho dù đó là Bangladesh, Việt Nam hay Campuchia, thì hiện tại đều nằm trong khoảng từ 19-20%”, ông Mukaty đánh giá.
Bài toán chi phí với ngành dệt may châu Á
Theo ông Yohan Lawrence, Tổng thư ký Diễn đàn các Hiệp hội dệt may liên kết tại Sri Lanka, với mức thuế quan 20%, ông không lo ngại hàng may mặc sản xuất ở nước này sẽ trở nên đắt hơn so với các mặt hàng từ các quốc gia khác vì “mọi nhà cung cấp đều đang bị kéo lên một mặt bằng mới”.
Tuy nhiên, một câu hỏi lớn đang được đặt ra là liệu người tiêu dùng Mỹ có thể duy trì nhịp độ mua sắm như trước hay không. Bởi theo ông Lawrence, mức thuế 10% mà Mỹ áp đặt hồi tháng 4-2025 chủ yếu đã được các nhà sản xuất và thương hiệu hấp thụ. Giờ đây, phần thuế quan gia tăng nhiều khả năng sẽ được chuyển trực tiếp lên người tiêu dùng Mỹ. Giá tăng thường làm giảm nhu cầu, và “quần áo là thứ người ta có thể dễ dàng cắt giảm, tìm sản phẩm rẻ hơn hoặc trì hoãn việc mua sắm”.
Thực vậy, áp lực thuế quan đang buộc các “ông lớn” trong ngành may mặc như Fast Retailing (Nhật Bản) và Adidas (Đức) - vốn nhập lượng lớn hàng từ các quốc gia châu Á, hiện đang đối mặt với viễn cảnh buộc phải tăng giá bán tại thị trường Mỹ.
Việt Nam, vốn chịu mức thuế 20%, hiện là nhà sản xuất lớn nhất các sản phẩm Adidas bán tại Mỹ. Giám đốc điều hành Adidas Bjorn Gulden mới đây cho biết, công ty đã chịu tác động tiêu cực từ thuế quan của Mỹ ở mức “hàng chục triệu euro” trong quí 2 vừa qua, đồng thời dự báo thuế quan có thể “trực tiếp làm tăng chi phí sản phẩm của chúng tôi tại thị trường Mỹ lên tới 200 triệu euro trong phần còn lại của năm”.
Tình hình tương tự cũng xảy ra với Fast Retailing - công ty hiện đang vận hành 74 cửa hàng thương hiệu Uniqlo tại Mỹ và đặt lượng lớn hàng từ châu Á, bao gồm 60 nhà máy ở Việt Nam, 27 ở Bangladesh và 19 ở Campuchia. Công ty đã chủ động tăng lượng hàng tồn kho tại Mỹ để chuẩn bị cho thuế quan, nhưng vẫn sẽ phải đối mặt mức thuế cao hơn đối với các sản phẩm mùa Thu - Đông. “Chúng tôi sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tăng giá một số sản phẩm”, phía công ty cho biết. Một số tên tuổi khác như Nike, Gap, Puma, H&M cũng đã phải tiến hành những động thái tương tự.
Trong bối cảnh đó, với các nền kinh tế có mức chênh lệch thuế quan không quá lớn, khả năng giành thêm thị phần và thu hút đầu tư của ngành dệt may các nước châu Á trong thời gian tới sẽ phụ thuộc nhiều vào khả năng kiểm soát tốt chi phí, nâng cao tỷ lệ nguồn nguyên liệu nội địa và cải thiện năng suất qua tự động hóa và chuyển đổi số.
Theo ông Yohan Lawrence, với đặc điểm mô hình kinh doanh biên lợi nhuận thấp, sản lượng cao của ngành dệt may, chỉ cần một biến động chi phí nhỏ cũng có thể tạo nên ảnh hưởng lớn. “Chỉ vài cent đi sai hướng cũng đủ khiến bạn mất đơn hàng”, ông nói thêm.
Xu hướng đa dạng hóa thị trường
Trong khi cố gắng thích ứng với những thay đổi từ thị trường Mỹ, các doanh nghiệp dệt may châu Á cũng hướng tới việc đa dạng hóa thị trường nhằm giảm thiểu rủi ro.
Tại Indonesia, ông Deddy Mulyadi - chủ một doanh nghiệp dệt may có khoảng 80% đơn hàng xuất khẩu sang Mỹ, cho biết đang khẩn trương tìm kiếm đối tác tại các thị trường mới. “Chúng tôi đang cố gắng giảm bớt sự tập trung vào thị trường Mỹ. Trung Đông là một thị trường có tiềm năng rất lớn, tiếp đó, chúng tôi sẽ hướng tới các thương hiệu từ Nhật Bản, châu Âu”.
Nhà phân tích thương mại và đầu tư Andry Satrio Nugroho tại Viện Phát triển kinh tế và Tài chính Indonesia nhận định việc nước này đạt được thỏa thuận với Mỹ về việc giảm thuế quan từ 32% xuống 19% là một bước đi cần thiết, để các doanh nghiệp dệt may có đủ thời gian thích ứng.
“Điều này tạo điều kiện cho các nhà sản xuất dệt may Indonesia có thêm thời gian để giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường Mỹ”, ông Andry nói. “Chúng tôi phải chuyển sang các nước phát triển khác càng sớm càng tốt. Châu Âu có thể là một thị trường tiềm năng cho chúng tôi trong tương lai, sau Mỹ”.
Tại Sri Lanka, Giáo sư kinh tế kỳ cựu Sirimal Abeyratne tại Đại học Colombo cũng đánh giá cú sốc thuế quan có thể là “hồi chuông cảnh tỉnh” để chính phủ nước này đẩy nhanh quá trình tự do hóa thương mại đang bị trì hoãn lâu nay. Chuyên gia thương mại Rohan Masakorala cũng nhận định các hiệp định thương mại tự do (FTA) sẽ là cách thức hữu hiệu để giúp ngành dệt may nước này “duy trì vị thế điểm đến sản xuất hấp dẫn”, giảm phụ thuộc vào một thị trường duy nhất.
Theo giới chuyên gia, mức thuế quan hiện tại vừa là áp lực nhưng cũng là động lực để các nhà xuất khẩu cố gắng cân đối giữa chi phí và giá bán để giữ chân khách hàng, đồng thời thúc đẩy chiến lược đa dạng hóa thị trường nhằm giảm rủi ro từ chính sách thuế quan Mỹ. Trong dài hạn, các hiệp định FTA sẽ đóng vai trò then chốt giúp ngành dệt may châu Á mở rộng thị trường, giảm thuế quan và gia tăng vị thế cạnh tranh trong bối cảnh thương mại toàn cầu căng thẳng.
Nguồn: Economics Times, NDTV, Reuters, Nikkei Asia Review, Inside Retail
Lạc Diệp