Hàng hóa từ Trung Quốc và các nước châu Á được bốc dỡ tại cảng Long Beach, California, Mỹ. Ảnh: AFP/TTXVN
Để đánh giá tác động của các mức thuế quan mới nhất (dự kiến có hiệu lực vào ngày 7/8), cần xem xét các hiệp định thương mại tự do được đàm phán gần đây (chẳng hạn như thỏa thuận Mỹ-Liên minh châu Âu), mức thuế 50% áp dụng đối với thép và nhôm nhập khẩu, và các miễn thuế đối với nhập khẩu điện thoại thông minh, máy tính và các thiết bị điện tử khác.
Mức thuế bổ sung được điều chỉnh cao nhất là đối với Brazil (50%), và thấp nhất là đối với Australia và Anh (10%). Đối với hầu hết các quốc gia, mức thuế sửa đổi thấp hơn mức thuế ban đầu mà chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố trong “Ngày Giải phóng”. Tuy nhiên, Brazil, Thụy Sĩ và New Zealand phải chịu mức thuế cao hơn so với mức thuế được công bố ngày 2/4.
Ngoài các mức thuế bị áp, hàng hóa của Canada và Mexico không được đăng ký tuân thủ Hiệp định Mỹ-Mexico-Canada sẽ phải chịu mức thuế lần lượt là 35% và 25%.
Tác động kinh tế của việc điều chỉnh thuế quan được xem xét bằng cách sử dụng mô hình toàn cầu về thị trường hàng hóa và dịch vụ, bao gồm sản xuất, thương mại và tiêu dùng. Một mô hình tương tự đã được sử dụng để đánh giá tác động của thuế quan tương hỗ ban đầu và hậu quả của cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung.
Thuế quan làm GDP hàng năm của Mỹ giảm 0,36%. Con số này tương đương 108,2 tỷ USD, hay 861 USD/hộ gia đình/năm. Sự thay đổi trong GDP của Mỹ là tổng hợp các tác động liên quan đến một số yếu tố.
Thuế quan sẽ buộc các nhà sản xuất nước ngoài phải giảm giá. Tuy nhiên, mức giảm giá này chỉ bù đắp một phần chi phí thuế quan, do đó người tiêu dùng Mỹ phải trả giá cao hơn.
Đối với hầu hết các nền kinh tế khác, thuế quan bổ sung làm giảm GDP. GDP của Thụy Sĩ giảm 0,47%, tương đương 1.215 USD/hộ gia đình/năm. Mức giảm GDP tương ứng cũng tương đối lớn đối với Thái Lan (0,44%) và Đài Loan (Trung Quốc) với 0,38%. GDP của Trung Quốc và Liên minh châu Âu giảm tương đối mạnh, lần lượt là 66,9 tỷ USD và 26,6 tỷ USD.
Trong khi đó, Australia và Anh được hưởng lợi từ thuế quan, lần lượt là 0,1 tỷ USD và 0,07 tỷ USD, chủ yếu do mức thuế quan tương đối thấp áp dụng cho các quốc gia này.
Mặc dù phải chịu mức thuế quan bổ sung tương đối thấp, GDP của New Zealand giảm 0,15% (204 USD/hộ gia đình) do nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của nước này cạnh tranh với hàng hóa của Australia, vốn chịu mức thuế thậm chí còn thấp hơn.
Các doanh nghiệp cũng phải trả nhiều tiền hơn cho các phụ tùng và vật liệu. Cuối cùng, mức giá cao hơn này gây tổn hại cho nền kinh tế Mỹ. Thuế quan làm giảm 486,7 tỷ USD kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Mỹ. Tuy nhiên, khi chúng làm tăng chi phí chuỗi cung ứng của Mỹ và chuyển nhiều lao động cũng nguồn lực hơn sang các ngành công nghiệp cạnh tranh với hàng nhập khẩu, tránh xa các bộ phận khác của nền kinh tế, chúng cũng làm giảm 451,1 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Mỹ.
Mặc dù mức thuế quan tương hỗ được điều chỉnh (nhìn chung thấp hơn mức được công bố ngày 2/4), nhưng chúng vẫn là một cú sốc đáng kể đối với hệ thống thương mại toàn cầu.
Thị trường tài chính đã sôi động trở lại kể từ khi ông Trump tạm dừng áp dụng thuế quan đối ứng vào ngày 9/4, một phần với hy vọng rằng mức thuế này sẽ không bao giờ được áp dụng. Mức thuế quan ít nhất 10%-15% của Mỹ hiện dường như đã trở thành chuẩn mực mới.
Khi các kho hàng của Mỹ cạn kiệt hàng tồn kho và dự trữ, con đường phía trước có thể sẽ gập ghềnh.
Thanh Tú/vnanet.vn