Những ngày trước khi bão về, các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương cũng như người dân tỉnh Thanh Hóa đã nỗ lực chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để ứng phó với tình hình bão lũ. Thế nhưng sức người chẳng thể chống lại được thiên tai.
Mưa tràn về xối xả. Gió giật mạnh liên hồi. Tiếng cuồng phong gầm rú như muốn xé toạc mọi thứ giữa không trung. Những âm thanh chát chúa ấy khiến tôi thấy nhớ mẹ, nhớ quê, nhớ những ngày nước ngập khắp cánh đồng vào mùa thu hoạch mà cay cay sống mũi.
Quê tôi vốn là vùng chiêm trũng, cánh đồng ấy chỉ cấy duy nhất một vụ lúa chiêm. Nhưng cứ đến tháng 5, tháng 6, khi mùa mưa đến, sau trận mưa xối xả cả cánh đồng bạt ngàn lúa lại trắng xóa nước một màu. Nghe những tiếc thở dài thường thượt của người lớn, một đứa trẻ như tôi chẳng thể thấu hết được những đắng cay, nhọc nhằn khi ấy. Tuổi thơ tôi cứ hồn nhiên, ngơ ngác nhìn mẹ cùng bà con chạy lụt mà chẳng biết rằng, nước mắt đang hòa lẫn nước mưa. Mặn chát.
Người dân quê tôi nghèo lắm. Hầu như họ chỉ nhìn thời tiết qua kinh nghiệm dân gian. Họ chỉ là những người đọc thông, viết thạo, thậm chí nhiều người còn không viết nổi tên mình. Thế nhưng, bằng kinh nghiệm sống, họ chỉ cần nhìn đường chân trời, nhìn tổ kiến, nhìn chuồn chuồn bay lượn... là biết được sẽ nắng hay mưa. Nhưng sức con người có hạn, làm sao có thể chống chọi được với thiên nhiên, với đất trời?
Ngày xưa, quê tôi bão lũ dồn dập. Người lớn bảo, vùng chiêm trũng nên thường chịu lắm tai ương. Năm nào bão cũng về, mà bão về thì nghiễm nhiên có lũ. Từ đời này sang đời khác phải hứng chịu nhiều thiên tai, dịch bệnh nên người dân quê tôi cũng thành chai sạn. Họ cứ oằn mình, nghiêng vai đón nhận những trận mưa dữ dội, những trận cuồng phong dằn dữ của thiên nhiên.
Ngày ấy, ở quê tôi, gia đình nào cũng có ít nhất một chiếc thuyền nan được cất cẩn thận ở góc nhà. Thuyền to hay nhỏ tùy thuộc vào nhu cầu sử sụng của mỗi gia đình. Bọn trẻ chúng tôi thích thú khi được theo người lớn chèo thuyền ra đồng gặt lúa, cấy lúa, bắt ốc, bắt cá... Mùa lũ về, chiếc thuyền sẽ được phát huy hết công năng. Đó là phương tiện duy nhất của người dân quê tôi vào mùa lụt.
Bầu trời tối sầm lại, mây đen vần vũ, sấm chớp đùng đùng, những chớp ngoằn ngoèo như muốn xé toạc cả không gian. Mưa cũng dần nặng hạt... Có lúc, mưa to đến độ, cảm giác như ai đó bê chậu nước từ trên cao dội xuống. Nước tràn qua bờ ao, nước tràn ra đường lớn, nước tràn qua xóm dưới, nước xô lúa mà đi. Chỉ sau một đêm, cá trong ao cũng theo nước đi mất, cánh đồng lúa trĩu hạt hôm qua còn rì rào trong gió nay đã lênh láng một màu trắng đục ngầu.
Mưa xối xả mặt mày, mưa tối tăm mặt mũi. Vậy mà mẹ vẫn cùng bà con chèo thuyền ra đồng. Nước ngang cổ, ngang ngực... mẹ vẫn kéo chiếc thuyền phía sau cố vớt vát ít lúa non. Mẹ bảo, được chút nào hay chút đó. Thậm chí, đem về chỉ để làm thức ăn cho gà, cho lợn. Chẳng biết, tôi đã phải chứng kiến bao nhiêu lần cảnh mẹ cùng bà con chèo thuyền ra đồng nhặt nhạnh những gì còn sót lại sau trận lụt.
Những ngày sau đó, bà con quê tôi lại chia nhau từng bát gạo hay củ khoai, củ sắn, có khi là bó mồng tơi... Khổ cực là vậy, nhưng nơi đó đã dạy tôi biết yên thương, biết sẻ chia đùm bọc, biết thế nào là tình làng, nghĩa xóm. Đó là thứ ân tình mà không có gì có thể đong đếm, thay thế được.
...
Người dân xứ Thanh, cũng như những con người trên dải đất miền Trung này đã quen sống với sự khắc nghiệt của đất trời. Mùa hè thì nóng như nung, như nấu, mùa mưa bão thì như thủy quái kéo về. Đến hôm nay, cuộc sống hiện đại hơn, nhưng người dân quê tôi vẫn không thể thoát được cảnh ngập lụt vào những mùa mưa bão.
Hậu quả mà bão số 10 và hoàn lưu sau bão nặng nề khó có thể kể hết. Chỉ sau một đêm, nhiều bản làng của tỉnh Thanh đã ngập sâu trong biển nước, nhiều ngôi nhà hư hỏng hoàn toàn. Mưa lớn kéo dài trên diện rộng, kết hợp với nước lũ từ thượng nguồn đổ về đã gây ra tình trạng ngập lụt nghiêm trọng, nhấn chìm nhiều nhà cửa, tài sản, ruộng vườn, hoa màu và vật nuôi của người dân...
Mưa càng to, những con số thiệt hại cứ thay đổi theo từng giờ, từng phút. Các cơ quan chức năng tỉnh Thanh Hóa đã huy động hết mọi nhân lực, vật lực để ứng phó với bão lũ. Nhiều cán bộ, chiến sĩ không quản ngày đêm, không sợ hiểm nguy lao vào dòng nước lũ cứu người, tổ chức sơ tán dân, nhất là người già, trẻ nhỏ khỏi các khu vực nguy hiểm đến nơi an toàn. Sau nhiều giờ dầm mình trong mưa lũ, các anh chỉ kịp lót dạ bằng một miếng lương khô, một mẩu bánh mì hay miếng mì tôm sống rồi lại vội vã vận chuyển nhu yếu phẩm, đồ tiếp tế, hỗ trợ y tế đến các khu vực bị cô lập, giúp người dân ổn định cuộc sống tạm thời, vượt qua khó khăn trước mắt.
Bão tan. Đâu đâu cũng mênh mông nước. Người dân quê tôi thất thần khi bao mồ hôi, công sức đã bị dòng nước cuốn trôi hết thảy. Đàn lợn, đàn gà cũng đã đi theo lũ dữ. Nhiều ngôi nhà chỉ còn lại đống đổ nát. Làng xóm xơ xác, tiêu điều... Rồi mọi người tự động viên nhau, “thôi, còn người, còn của”.
Bão tan. Dưới những cơn mưa tầm tã, từng đoàn thiện nguyện từ khắp nơi tìm về nơi bà con quê tôi gặp nạn. Họ mang theo áo phao, mì tôm, lương khô, nước uống, hàng trăm suất cơm nghĩa tình, đong đầy những yêu thương... chia sẻ với bà con vùng lũ. Đây không chỉ là những nhu yếu phẩm cấp bách, mà còn là nguồn động viên tinh thần, tiếp thêm niềm tin để người dân vượt qua hoạn nạn.
Cùng với lực lượng chức năng, trong lúc gian nguy, sự chung tay của cộng đồng càng trở nên đáng quý, đáng trọng.
Hà Đan (CTV)