Thủy đậu không chỉ là căn bệnh 'vặt' của trẻ em

Thủy đậu không chỉ là căn bệnh 'vặt' của trẻ em
5 giờ trướcBài gốc
Tiêm vaccine đầy đủ và đúng lịch giúp người dân bảo vệ bản thân khỏi nhiều dịch bệnh nguy hiểm. Ảnh: HCDC.
Những biến chứng không thể xem nhẹ
Mới đây tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, một bệnh nhân nam 30 tuổi mắc hội chứng thận hư, chưa từng tiêm phòng, nhập viện trong tình trạng sốt cao, phát ban toàn thân, suy hô hấp, rối loạn đông máu. Dù được tích cực điều trị, người bệnh nhanh chóng tiến triển suy gan, suy đa tạng và không qua khỏi. Đây là một trong những ca thủy đậu thể nặng điển hình ở người lớn – nhóm được xem là có nguy cơ cao nếu không có miễn dịch bảo vệ.
PGS.TS Đỗ Duy Cường – Viện trưởng Viện Y học Nhiệt đới – Bệnh viện Bạch Mai, nhận định: Người lớn mắc thủy đậu có nguy cơ biến chứng cao hơn nhiều so với trẻ em. Đặc biệt, với những người có bệnh nền, đang dùng thuốc ức chế miễn dịch hoặc chưa từng mắc bệnh, virus có thể gây tổn thương đa cơ quan trong thời gian rất ngắn.
Theo các chuyên gia, thủy đậu là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus Varicella-zoster gây ra, lây qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc trực tiếp với dịch từ mụn nước. Thời gian lây lan bắt đầu từ 1–2 ngày trước khi phát ban và kéo dài tới khi toàn bộ nốt phỏng khô vảy. Tốc độ lây rất nhanh, nhất là trong môi trường khép kín như trường học, nhà trọ, doanh trại.
Điều khiến thủy đậu trở nên nguy hiểm là chuỗi biến chứng có thể xảy ra nếu không được phát hiện và xử lý kịp thời. Ở người lớn, bệnh dễ tiến triển thành viêm phổi nặng, viêm não, viêm gan, nhiễm trùng huyết, tổn thương thần kinh… Đặc biệt, phụ nữ mang thai nếu mắc bệnh trong 3 tháng đầu có thể đối mặt nguy cơ sảy thai hoặc thai nhi dị tật bẩm sinh. Nếu mắc vào giai đoạn cuối thai kỳ, trẻ sinh ra có thể bị thủy đậu bẩm sinh với tỷ lệ tử vong cao.
PGS Cường cho biết thêm, nhiều người chủ quan vì cho rằng mình đã “bị thủy đậu rồi” khi thực chất từng mắc zona thần kinh – một bệnh do cùng chủng virus nhưng cơ chế khác biệt. Sự nhầm lẫn này khiến không ít người bỏ qua cơ hội tiêm vaccine, đến khi nhiễm bệnh mới phát hiện cơ thể không có miễn dịch bảo vệ.
Hiện nay, một bộ phận không nhỏ người trưởng thành, đặc biệt là trong độ tuổi lao động chưa từng mắc thủy đậu, cũng chưa tiêm vaccine. Trong khi đó, tốc độ lây lan của virus lại rất nhanh trong môi trường sinh hoạt chung như ký túc xá, công trường, khu công nghiệp… Nếu để dịch bùng phát trong nhóm người lớn, hậu quả về sức khỏe và kinh tế sẽ rất nặng nề.
Vaccine – tấm khiên bảo vệ không thể bỏ qua
Trong bối cảnh số ca thủy đậu ở người lớn ngày càng gia tăng và ghi nhận nhiều biến chứng nặng, vaccine chính là biện pháp phòng ngừa hiệu quả nhất để tạo miễn dịch chủ động, bảo vệ bản thân và cộng đồng.
Vaccine thủy đậu hiện nay được khuyến cáo tiêm 2 liều để đảm bảo hiệu quả miễn dịch tối ưu. Sau khi tiêm đủ liều, người được tiêm có thể đạt miễn dịch bền vững trong 10 – 20 năm, thậm chí suốt đời ở một số trường hợp. Đặc biệt, nếu không phòng bệnh hoàn toàn, người đã tiêm vẫn có nguy cơ mắc nhưng sẽ ở thể nhẹ, hầu như không có biến chứng nghiêm trọng.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) đều khuyến cáo vaccine thủy đậu là phương pháp phòng ngừa hiệu quả và an toàn. Tuy nhiên, hiệu quả này chỉ phát huy nếu người dân chủ động tiêm đủ và đúng lịch.
Tại Việt Nam, vaccine thủy đậu chưa nằm trong chương trình tiêm chủng mở rộng mà thuộc nhóm tiêm chủng dịch vụ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ tiêm chủng còn chưa cao, đặc biệt ở nhóm người trưởng thành. Nhiều người lớn chưa từng tiêm, cũng chưa từng mắc bệnh, đang sống trong môi trường có nguy cơ lây nhiễm cao nhưng không biết rằng bản thân chưa có miễn dịch.
Theo khuyến cáo của các chuyên gia, tất cả trẻ em từ 12 tháng tuổi trở lên nên được tiêm vaccine thủy đậu càng sớm càng tốt, trong đó liều đầu tiên được tiêm ở độ tuổi từ 12 đến 15 tháng, và liều thứ hai cách đó ít nhất 6 tuần để đảm bảo hiệu quả miễn dịch tối ưu. Ngoài ra, người lớn chưa từng mắc bệnh hoặc chưa từng tiêm phòng cũng được khuyến cáo chủng ngừa càng sớm càng tốt, đặc biệt nếu đang sống, làm việc trong môi trường có nguy cơ lây nhiễm cao. Đối với phụ nữ chuẩn bị mang thai, nên hoàn tất tiêm vaccine ít nhất ba tháng trước khi thụ thai nhằm giảm thiểu tối đa nguy cơ lây truyền virus cho thai nhi.
Các trường hợp chống chỉ định tạm thời gồm: phụ nữ đang mang thai, người đang bị suy giảm miễn dịch nặng, người đang điều trị bằng thuốc corticoid liều cao, hóa trị hoặc xạ trị, người mới truyền máu hoặc chế phẩm miễn dịch.
Thực tế, nhiều người có tâm lý e ngại tiêm vaccine vì lo tác dụng phụ. Tuy nhiên, theo chuyên gia, các phản ứng sau tiêm như sốt nhẹ, sưng đau tại chỗ, phát ban nhẹ... là bình thường và tự khỏi sau 1–2 ngày. Trường hợp phản ứng nghiêm trọng là rất hiếm gặp. Lợi ích phòng bệnh vượt trội so với nguy cơ xảy ra tác dụng không mong muốn.
PGS.TS Đỗ Duy Cường khuyến cáo: “Nếu chưa từng mắc bệnh, chưa tiêm vaccine, người trưởng thành nên chủ động đi xét nghiệm kiểm tra miễn dịch và tiêm phòng sớm. Đừng chờ đến khi xuất hiện ca bệnh xung quanh mới vội vàng tiêm, bởi lúc đó có thể đã quá muộn.”
Trong trường hợp đã mắc bệnh, người bệnh cần được cách ly ít nhất 7–10 ngày kể từ khi phát ban, giữ vệ sinh da, không làm vỡ các nốt phỏng, theo dõi dấu hiệu biến chứng như sốt cao kéo dài, khó thở, đau đầu dữ dội… Việc sử dụng thuốc kháng virus (như Acyclovir) cần tuân thủ đúng chỉ định của bác sĩ, không tự ý dùng thuốc, đặc biệt là corticoid hoặc aspirin vì có thể làm bệnh nặng thêm.
Đức Trân
Nguồn Đại Đoàn Kết : https://daidoanket.vn/thuy-dau-khong-chi-la-can-benh-vat-cua-tre-em-10312154.html