Tận dụng C/O từ EVFTA: Tôm dẫn dắt, nhiều mặt hàng tăng tốc
Việc gia tăng tỷ lệ sử dụng Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) không chỉ giúp thủy sản Việt Nam giữ vững đà tăng trưởng tại EU mà còn tạo lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ lớn trên thị trường quốc tế.
Theo số liệu của Cục Hải quan Việt Nam, quý III/2025, xuất khẩu thủy sản sang EU đạt 71,07 nghìn tấn, trị giá 327,78 triệu USD, tăng 11% về lượng và 18% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Lũy kế 9 tháng năm 2025, xuất khẩu thủy sản sang khu vực này đạt 194,1 nghìn tấn, trị giá 867,22 triệu USD, tăng lần lượt 4,6% và 11,2% so với cùng kỳ năm trước, chiếm hơn 10% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước. EU hiện là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ tư của Việt Nam, sau Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Kết quả này phản ánh rõ xu hướng phục hồi và tăng trưởng ổn định của thủy sản Việt Nam tại EU, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều biến động. Một trong những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng chính là việc doanh nghiệp ngày càng chú trọng tận dụng ưu đãi thuế quan từ EVFTA thông qua chứng nhận xuất xứ hàng hóa.
Trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang EU, tôm tiếp tục giữ vai trò chủ lực và là nhóm hàng tận dụng ưu đãi EVFTA hiệu quả nhất. Riêng quý III/2025, xuất khẩu tôm sang EU tăng 20,6% về lượng và 25,6% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2025, mặt hàng này tăng mạnh 33,1% về lượng và 24,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.
Các mặt hàng cá đông lạnh, chả cá cũng ghi nhận mức tăng trưởng tích cực trong cả quý III và 9 tháng năm 2025 (Ảnh: Vasep)
Sau tôm, các mặt hàng cá đông lạnh, chả cá cũng ghi nhận mức tăng trưởng tích cực trong cả quý III và 9 tháng năm 2025. Đây là những nhóm sản phẩm có lợi thế về quy mô chế biến và khả năng đáp ứng quy tắc xuất xứ của EVFTA, từ đó tận dụng tốt ưu đãi thuế quan khi xuất khẩu sang EU.
Tại Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Thương mại Việt Nam - EU năm 2025, bà Tô Thị Tường Lan, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (Vasep), cho biết EU là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn thứ hai thế giới, với nhu cầu ước tính hơn 30 tỷ EUR mỗi năm. Kể từ khi EVFTA có hiệu lực vào tháng 8/2020, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU-27 đạt 958,7 triệu USD và dự kiến năm 2025 sẽ tăng lên gần 1,2 tỷ USD.
Theo bà Lan, dù thị phần thủy sản Việt Nam tại EU chưa có bước đột phá lớn trong 5 năm qua, EVFTA vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì đà tăng trưởng ổn định của xuất khẩu thủy sản, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt với các nguồn cung lớn như Ấn Độ, Indonesia hay Ecuador.
Doanh nghiệp chủ động đáp ứng xuất xứ, nhưng thách thức còn lớn
Thực tế tại doanh nghiệp cho thấy, việc tận dụng C/O EVFTA đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Ông Ngô Minh Phương, Giám đốc điều hành Công ty TNHH Việt Trường, cho biết việc thực thi EVFTA giúp kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp sang EU tăng khoảng 200%. Các sản phẩm chủ lực của công ty đều ghi nhận mức tăng trưởng tốt nhờ đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn truy xuất nguồn gốc và chứng nhận xuất xứ.
Theo ông Phương, doanh nghiệp đặc biệt chú trọng khâu thu mua nguyên liệu, kiểm soát quy trình sản xuất và hoàn thiện hồ sơ C/O để đủ điều kiện xuất khẩu sang EU. Bên cạnh đó, công ty cũng đẩy mạnh phát triển các sản phẩm giá trị gia tăng, đồng thời xây dựng chiến lược xanh, đáp ứng yêu cầu về chứng chỉ carbon nhằm phù hợp với xu hướng tiêu dùng bền vững tại thị trường châu Âu.
Hiện nguồn nguyên liệu thủy sản trong nước mới chỉ đáp ứng khoảng 40 - 45% nhu cầu chế biến (Ảnh: TTXVN)
Tuy nhiên, việc tuân thủ quy tắc xuất xứ vẫn là thách thức lớn đối với toàn ngành. Hiện nguồn nguyên liệu thủy sản trong nước mới chỉ đáp ứng khoảng 40 - 45% nhu cầu chế biến. Nhiều doanh nghiệp vẫn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc, Ấn Độ… khiến việc xác nhận xuất xứ để hưởng ưu đãi EVFTA gặp khó khăn.
Theo Vasep, trong 10 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đã chi khoảng 2,73 tỷ USD để nhập khẩu thủy sản, tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm trước - mức cao nhất từ trước đến nay. Riêng tháng 10/2025, kim ngạch nhập khẩu đạt hơn 304 triệu USD, phản ánh nhu cầu lớn về nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu.
Ngoài ra, quá trình xin cấp C/O mẫu EUR.1 còn phát sinh nhiều rào cản do gắn với các yêu cầu kiểm soát IUU, khai báo mã HS và các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về môi trường, lao động, an toàn thực phẩm. Việc đáp ứng các tiêu chuẩn này làm gia tăng chi phí sản xuất, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam so với các đối thủ.
Đáng chú ý, phần lớn doanh nghiệp thủy sản Việt Nam vẫn chủ yếu gia công, ít phát triển thương hiệu riêng tại EU. Khoảng 90% sản phẩm xuất khẩu mang nhãn hiệu của nhà nhập khẩu, làm hạn chế giá trị gia tăng và khả năng nhận diện nguồn gốc Việt Nam. Đây là hạn chế doanh nghiệp cần khắc phục nhằm tận dụng tốt hơn ưu đãi để tăng xuất khẩu sang EU thời gian tới.
Thực tế này cho thấy, để tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang EU, ngành thủy sản không chỉ cần nâng cao tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi mà còn phải đầu tư mạnh mẽ hơn vào nguồn nguyên liệu trong nước, quản trị chuỗi cung ứng và xây dựng thương hiệu. Đây chính là chìa khóa để EVFTA thực sự trở thành bệ phóng giúp thủy sản Việt Nam nâng cao vị thế trên thị trường EU.
Lan Phương