Cây hải kim sa mọc hoang ở nhiều nơi chứa nhiều hoạt chất kháng khuẩn, kháng nấm.
Giải quyết tình trạng kháng thuốc
Trong bối cảnh tình trạng kháng thuốc kháng sinh và kháng nấm ngày càng trở nên nghiêm trọng, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển, việc tìm kiếm những nguồn dược liệu tự nhiên có hoạt tính sinh học mạnh đang được giới khoa học đặc biệt quan tâm. Một trong những nghiên cứu đáng chú ý gần đây đến từ Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng đã bước đầu xác nhận tiềm năng kháng khuẩn và kháng nấm của cao chiết từ cây Hải kim sa.
Hải kim sa còn được gọi là bòng bong, là một loài dương xỉ mọc hoang nhiều nơi ở Việt Nam. Trong y học cổ truyền, hải kim sa được sử dụng để điều trị viêm thận, viêm bàng quang, tiêu chảy và nhiễm trùng da.
Dân gian cũng thường giã nát lá tươi đắp ngoài da để trị các vết viêm da nhẹ, cho thấy cây có thể có hoạt tính kháng khuẩn tự nhiên. Dựa trên kinh nghiệm này, nhóm tác giả ở Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng (TPHCM) đã nghiên cứu, xác định khả năng kháng khuẩn và kháng nấm của cao chiết lá hải kim sa.
ThS Bùi Thanh Phong, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết, vi khuẩn gram dương Staphylococcus aureus và vi khuẩn gram âm Pseudomonas aeruginosa là những tác nhân phổ biến gây nên nhiều loại nhiễm trùng nghiêm trọng như viêm da, viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết, viêm van tim,...
Trong khi đó, nấm Candida albicans là nguyên nhân chính gây nhiễm trùng da, tiêu hóa và máu, đặc biệt nguy hiểm đối với bệnh nhân có hệ miễn dịch suy giảm như người mắc HIV/AIDS, ung thư, tiểu đường.
Trước tình trạng nhiều chủng vi sinh vật ngày càng đề kháng với các loại thuốc hiện có, việc nghiên cứu dược liệu truyền thống để tìm ra nguồn hoạt chất tự nhiên có khả năng kháng sinh, kháng nấm là hướng đi đầy triển vọng. Các nghiên cứu gần đây cho thấy cây chứa nhiều hợp chất hoạt tính sinh học có khả năng chống lại vi sinh vật hiệu quả.
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành chiết xuất lá Hải kim sa thu hái tại Long An bằng ethanol 70% để thu được cao toàn phần (TP). Phần cao TP này tiếp tục được phân đoạn bằng các dung môi khác nhau (n-hexan, chloroform, n-butanol và nước), cho ra các cao chiết HE, CF, BU và WA tương ứng.
Các mẫu cao chiết này sau đó được đem thử nghiệm khả năng ức chế ba chủng vi sinh vật gây bệnh: Staphylococcus aureus, Pseudomonas aeruginosa và Candida albicans, bằng hai phương pháp phổ biến là khuếch tán giếng thạch và pha loãng thạch. Đối chứng dương được sử dụng là Ciprofloxacin (với vi khuẩn) và Fluconazole (với nấm).
Khả năng ức chế vượt trội
ThS Bùi Thanh Phong cho biết, cao toàn phần (TP) thể hiện khả năng ức chế Staphylococcus aureus cao nhất với 78,125 µg/mL – mức hiệu quả cao đối với một dược liệu tự nhiên. Trong khi đó, cao CF (chiết bằng chloroform) thể hiện hoạt tính mạnh nhất đối với Pseudomonas aeruginosa, với đường kính vùng ức chế 12,67 mm và MIC 156,25 µg/mL.
Đối với nấm Candida albicans, cao TP tiếp tục chứng minh hiệu quả với vùng ức chế 12,67 mm và MIC 156,25 µg/mL, chỉ kém không đáng kể so với thuốc chuẩn Fluconazole. Cao nước (WA) và một số phân đoạn như BU không thể hiện tác dụng rõ rệt trong ức chế nấm, cho thấy khả năng kháng nấm tập trung ở một số hợp chất có mặt trong cao TP và CF.
Kết quả phân tích thành phần hóa thực vật của cao TP cho thấy có sự hiện diện của các nhóm chất nổi bật như carotenoid, polyphenol, flavonoid, saponin, alkaloid và coumarin – đều là những chất đã được chứng minh có khả năng kháng khuẩn, kháng nấm trong nhiều tài liệu khoa học.
Trong đó, flavonoid và alkaloid được đánh giá là những hợp chất có tác động mạnh đến vi khuẩn gram dương và nấm men. “Việc cao TP cho hiệu quả tốt hơn các phân đoạn riêng biệt cho thấy sự tương tác hiệp đồng giữa các hoạt chất trong dược liệu có thể đóng vai trò then chốt”, đại diện nhóm nghiên cứu cho biết.
Với những kết quả tích cực trong thử nghiệm in vitro, nhóm nghiên cứu khẳng định Hải kim sa là nguồn dược liệu tiềm năng để phát triển các sản phẩm chăm sóc da, hỗ trợ điều trị nhiễm khuẩn và nhiễm nấm ngoài da.
Đặc biệt, do cây mọc hoang phổ biến ở nhiều vùng của Việt Nam, chi phí nguyên liệu đầu vào thấp, quy trình khai thác và chiết xuất có thể phát triển theo hướng bền vững và thân thiện với môi trường.
Tuy nhiên, các tác giả cũng nhấn mạnh cần thêm nhiều nghiên cứu sâu hơn, đặc biệt là các thử nghiệm lâm sàng, để đánh giá độ an toàn và hiệu quả thực tế của các sản phẩm từ Hải kim sa trên người. Đồng thời, việc tối ưu hóa quy trình chiết xuất và bào chế cũng là bước cần thiết trước khi thương mại hóa.
Nhật Phong