Từ năm 2020 - 2025, y học toàn cầu và ở Việt Nam đã ghi nhận nhiều bước tiến quan trọng trong nhiều lĩnh vực: Từ phát triển vaccine mRNA, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong chẩn đoán hình ảnh, điều trị ung thư cá thể hóa đến các ca ghép tạng ngày càng phức tạp.
Ghép đa tạng phức tạp
Thời gian qua việc cấy ghép thận, tim, gan… từ heo đã được chỉnh sửa gene để phù hợp hơn với cơ thể người đã tạo nên những bước đột phá trong y học. Trong năm 2024, các nhà khoa học Trung Quốc đã thực hiện thành công việc cấy gan heo được chỉnh sửa gene vào người chết não để thử chức năng bổ sung cho gan suy yếu. Gan heo bắt đầu sản xuất mật và albumin, cho thấy hoạt động gan ‑ vật chủ trong một thời gian nhất định mà không bị thải nhanh.
Mới đây, vào tháng 1/2025, Bệnh viện Đa khoa Massachusetts (MGH) đã phẫu thuật cấy ghép thận từ heo biến đổi gene cho bệnh nhân người Mỹ, 67 tuổi mắc bệnh suy thận giai đoạn cuối. Sau ca ghép, bệnh nhân không còn phải phụ thuộc vào máy lọc máu. Đây cũng là trường hợp sống sót lâu nhất, hơn 6 tháng với cơ quan cấy ghép từ động vật trong cơ thể người, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lĩnh vực cấy ghép liên loài, chứng minh những bước tiến vượt bậc so với giai đoạn trước đây.
Hiện các trung tâm ghép tạng hàng đầu thế giới cũng mở rộng số lượng ca ghép tim, thận, gan, phổi, kết hợp các kỹ thuật bảo tồn tạng mới, cải thiện tỷ lệ sống sau ghép và giảm biến chứng.
Năm 2024, Vanderbilt University Medical Center (Mỹ) đã lập kỷ lục thế giới, thực hiện 174 ca ghép tim cho cả người lớn và trẻ em, một con số kỷ lục về số ca ghép tim được thực hiện trong một năm.
Việt Nam cũng có bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực ghép tạng. Tính đến cuối năm 2024, nước ta đạt 9.516 ca ghép tạng thành công kể từ khi bắt đầu chương trình ghép thận năm 1992.
Thực hiện thành công ca ghép đồng thời tim - phổi đầu tiên tại Việt Nam. Ảnh: Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
Đặc biệt nổi bật là ca ghép tim‑gan đồng thời đầu tiên được thực hiện tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức vào tháng 10/2024 cho bệnh nhân suy tim, suy gan nặng.
Mới đây, vào tháng 8/2025, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cũng đã thực hiện ca ghép tim‑phổi đồng thời thành công lần đầu tiên tại Việt Nam, một ca rất phức tạp vì liên quan đến hai cơ quan lớn cùng lúc.
Trong vài năm gần đây, Việt Nam duy trì số ca ghép tạng hơn 1.000 ca/năm, dẫn đầu khu vực Đông Nam Á. Hiện các bác sĩ Việt Nam đã làm chủ nhiều kỹ thuật y khoa tiên tiến.
AI trong chẩn đoán hình ảnh
Trong kỷ nguyên số, trí tuệ nhân tạo (AI) đã được ứng dụng mạnh mẽ, giúp nâng cao hiệu quả chẩn đoán và điều trị.
Tháng 10/2024, Family Medical Practice (FMP Healthcare Group), Trung tâm Tầm soát Sức khỏe CARE 1 & Siemens Healthineers Vietnam công bố triển khai kỹ thuật chụp nhũ ảnh 3D (Mammomat Inspiration) kết hợp trí thông minh nhân tạo, giúp nâng cao tính chính xác trong tầm soát ung thư vú.
Công nghệ chụp nhũ ảnh 3D tomosynthesis góc rộng 50 độ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả phát hiện sớm ung thư vú, với các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ phát hiện ung thư xâm lấn tăng 43% và giảm 15% liều bức xạ chỉ với một lần chụp.
AI được các bệnh viện ứng dụng trong chẩn đoán hình ảnh - Ảnh minh họa/ Nguồn internet
Tại Việt Nam, AI ứng dụng trong máy chụp cộng hưởng từ giúp cải thiện hiệu suất quá trình chụp, tăng độ chính xác và trải nghiệm tổng thể cho cả bệnh nhân và bác sĩ.
Đầu năm 2025, Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM đã nghiên cứu ứng dụng AI trong siêu âm tim và trở thành bệnh viện đầu tiên tại Việt Nam tiến hành triển khai phương pháp này. Tính đến nay, hơn 120 trường hợp siêu âm tim tại bệnh viện đã được thử nghiệm sử dụng AI và mang lại kết quả chẩn đoán rất tốt.
Trong lĩnh vực chẩn đoán hình ảnh (X-quang, CT-Scanner, MRI), ứng dụng AI tại nhiều bệnh viện ở Việt Nam không chỉ cải tiến đáng kể chất lượng và tốc độ chụp mà còn giúp phát hiện các dấu hiệu bệnh sớm, trở thành "trợ thủ đắc lực" cho các bác sĩ. Phần mềm trí tuệ nhân tạo EyeDr giúp tầm soát bệnh glaucoma chỉ mất 8-10 giây thay vì đợi 15-20 phút như trước.
Điều trị ung thư cá thể hóa
Điều trị ung thư cá thể hóa - tức thiết kế phác đồ dựa trên đặc điểm gene‑mô học của từng khối u và từng bệnh nhân đã trở thành mũi nhọn trong y học thế giới và đang được đẩy mạnh tại Việt Nam. Những tiến bộ này không chỉ cải thiện khả năng sống mà còn nâng cao chất lượng sống cho người bệnh.
Trên thế giới, các mạng lưới hợp tác như WIN Consortium đang tiên phong trong việc kết hợp phân tích phân tử, AI, thử nghiệm lâm sàng sáng tạo để cá thể hóa phương pháp điều trị ung thư.
Một trong các bước đột phá là ứng dụng vaccine ung thư cá thể hóa, neoantigen‑vaccine sử dụng trình tự gene riêng của bệnh nhân để huấn luyện hệ miễn dịch tấn công tế bào ung thư.
Bên cạnh đó, xét nghiệm “liquid biopsy” - tìm DNA ung thư lẫn trong máu đang được triển khai tại Anh với NHS, giúp phát hiện sớm biến đổi gene và áp dụng thuốc nhắm đích nhanh hơn.
Tại Việt Nam, Bệnh viện FV đầu tư hệ thống CyberKnife S7 – robot xạ phẫu tích hợp AI để điều trị u mà không phải mổ, giảm tác động đến mô lành, cải thiện chính xác điều trị cho từng khối u cụ thể.
Một số bệnh viện lớn như Chợ Rẫy, Bệnh viện Ung bướu TP HCM đã ứng dụng liệu pháp miễn dịch, xét nghiệm gene, mô học phân tử để lựa chọn thuốc và chiến lược điều trị phù hợp, đặc biệt trong các trường hợp ung thư phổi giai đoạn muộn, ung thư vú thể HER2 dương tính.
Bên cạnh đó, lần đầu tiên, Bệnh viện Truyền máu-Huyết học TP HCM áp dụng liệu pháp CAR‑T để điều trị ung thư máu trong nước. Điều này là bước đột phá vì trước đây bệnh nhân buộc phải ra nước ngoài để làm liệu pháp này do chi phí và công nghệ cao.
Vaccine mRNA
Trong bối cảnh đại dịch COVID‑19, vaccine mRNA đã chứng tỏ là một công nghệ mang tính đột phá, cho tới nay tiếp tục mở rộng ứng dụng vượt ra ngoài giới hạn chống virus SARS‑CoV‑2. Trên thế giới, hãng Moderna mới đây công bố vaccine thế hệ mới ngừa COVID‑19, gọi là mNEXSPIKE, cho đáp ứng miễn dịch rất mạnh chống biến thể LP.8.1, nâng cao hơn gấp gần 16 lần hiệu giá trung hòa ở người từ 65 tuổi trở lên cũng như người có bệnh nền.
Cùng lúc, Moderna cũng đạt kết quả lâm sàng xuất sắc với vaccine cúm mRNA‑1010: vượt trội hơn vaccine cúm được cấp phép về hiệu quả lên tới gần 26,6% trong thử nghiệm người lớn từ 50 tuổi trở lên.
Ngoài ra, các thử nghiệm vaccine mRNA điều trị ung thư bắt đầu được triển khai, như vaccine BNT116 của BioNTech cho ung thư phổi thể tế bào không nhỏ thử nghiệm giai đoạn đầu trên nhiều quốc gia, nhằm huấn luyện hệ miễn dịch nhận diện tế bào ung thư và ngăn tái phát.
Vaccine mRNA phòng chống dịch bệnh do virus Corona gây ra - Ảnh minh họa/ Nguồn internet
Tại Việt Nam, vaccine mRNA cũng được đẩy mạnh phát triển và ứng dụng. ARCT‑154 là vaccine COVID‑19 sử dụng công nghệ mRNA tự nhân, do Arcturus Therapeutics (Hoa Kỳ) chuyển giao công nghệ cho VinBioCare của Tập đoàn Vingroup. Vaccine này đã khởi động thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1 vào tháng 8/2021 với 100 tình nguyện viên tại Hà Nội, nhằm đánh giá tính an toàn và khả năng gây miễn dịch.
Cũng theo WHO và Bộ Y tế Việt Nam, Việt Nam được chọn là một trong các nước sẽ nhận chuyển giao công nghệ vaccine mRNA từ trung tâm do WHO thiết lập, nhằm nâng cao năng lực sản xuất vaccine bản địa để đáp ứng nhu cầu trong nước và chia sẻ cho khu vực.
Bình Nguyên