Trên số báo ngày 26-10, Pháp Luật TP.HCM có thông tin về văn bản rút kinh nghiệm của VKSND tỉnh Lâm Đồng về nội dung liên quan đến việc áp dụng quy định trừ thời gian bắt buộc khám chữa bệnh vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, trong một bản án.
Cụ thể, trong vụ án trên, bị cáo bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh trước khi bị đưa ra xét xử - tức thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 49 BLHS 2015 (quy định về bắt buộc chữa bệnh).
Khi tuyên án, cấp sơ thẩm không trừ khoảng thời gian bắt buộc chữa bệnh nêu trên vào thời hạn phải chấp hành án tù của bị cáo. Cấp phúc thẩm sau đó sửa án, chấp nhận quan điểm của VKS, trừ khoảng thời gian bắt buộc chữa bệnh vào thời gian chấp hành án.
Qua ghi nhận thực tế xét xử, chúng tôi nhận thấy các tòa án khi xét xử lại có quan điểm khác nhau về việc áp dụng quy định tại Điều 49 BLHS. Các chuyên gia pháp lý hiện cũng có 2 luồng quan điểm như cấp sơ thẩm và phúc thẩm của bản án trên.
Pháp Luật Luật TP.HCM tạm khép lại diễn đàn bằng ý kiến dưới đây của TS Phan Anh Tuấn, Trường Đại học Luật TP.HCM và mong các cơ quan tố tụng trung ương sớm có giải đáp hoặc hướng dẫn áp dụng thống nhất vấn đề này.
***
Tôi cho rằng quan điểm của VKSND tỉnh Lâm Đồng và quyết định của TAND tỉnh Lâm Đồng là hoàn toàn hợp lý, có căn cứ pháp luật và thể hiện tinh thần nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam.
Việc tòa án cấp sơ thẩm không trừ thời gian 1 năm 8 tháng 22 ngày mà bị cáo đã chấp hành quyết định bắt buộc chữa bệnh là một sai sót nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp của bị cáo.
Quang cảnh một phiên tòa hình sự. Ảnh: HOÀNG GIANG
Bắt buộc chữa bệnh là một hình thức của trách nhiệm hình sự
Về bản chất pháp lý, bắt buộc chữa bệnh là một hình thức của trách nhiệm hình sự. Biện pháp bắt buộc chữa bệnh (Điều 49 BLHS) là một trong các biện pháp tư pháp của luật hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (hành vi đó có thể cấu thành tội phạm hoặc không cấu thành tội phạm) trong khi mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Khi một người bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, họ bị hạn chế một trong những quyền cơ bản nhất là quyền tự do. Dù mục đích là để chữa bệnh, ngăn ngừa họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng về bản chất, đây là sự hạn chế tự do do Nhà nước áp dụng bắt buộc đối với họ do hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ đã thực hiện.
Trách nhiệm hình sự không chỉ bao gồm hình phạt (như tù có thời hạn, phạt tiền …) mà còn bao gồm các biện pháp tư pháp và án tích. Do đó, biện pháp bắt buộc chữa bệnh với tư cách là biện pháp tư pháp cũng là một trong các hình thức của trách nhiệm hình sự áp dụng đối với người phạm tội khi mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Thêm nữa, người bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh cũng bị hạn chế tự do, bị quản lý trong một cơ sở chuyên khoa. Do đó, việc không khấu trừ thời gian này sẽ dẫn đến tình trạng "chịu trách nhiệm hai lần" về trách nhiệm hình sự của người phạm tội được thể hiện thông qua hình phạt mà tòa án đã tuyên, điều này vi phạm nguyên tắc công bằng trong Luật Hình sự.
Do đó, khi áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thì phải khấu trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Về tỷ lệ khấu trừ trong trường hợp người phạm tội bị kết án phạt tù, khoản 3 Điều 49 BLHS quy định: “Thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù”, theo đó tỷ lệ quy đổi là 1:1.
Như vậy, người phạm tội bị kết án phạt tù phải trừ thời gian bắt buộc chữa bệnh tương tự như trường hợp khấu trừ thời gian bị tạm giữ, tạm giam để xác định thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại.
Đối chiếu với lý luận nêu trên, VKSND tỉnh Lâm Đồng chỉ rõ: “Việc tòa án cấp sơ thẩm không trừ thời gian 1 năm 8 tháng 22 ngày bị cáo chấp hành quyết định bắt buộc chữa bệnh là trái pháp luật, làm ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của bị cáo, khiến bị cáo phải chấp hành án tù lâu hơn so với quy định”. Và TAND tỉnh Lâm Đồng đã “chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, xử phạt bị cáo 27 tháng tù, chấp nhận quan điểm đề nghị của VKSND tỉnh Lâm Đồng sửa phần căn cứ pháp luật, quyết định hình phạt, căn cứ tính thời hạn chấp hành hình phạt tù đối với bị cáo”.
Điều này là hoàn toàn đúng với bản chất pháp lý hình sự của biện pháp bắt buộc chữa bệnh, là một hình thức của trách nhiệm hình sự.
Nguyên tắc khấu trừ được đặt cuối khoản 3 là có lý do về kỹ thuật lập pháp
Xoay quanh vấn đề này, cũng có thắc mắc rằng với cấu trúc điều luật của Điều 49 BLHS thì "Thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù" có áp dụng cho cả khoản 2, 3 Điều này (chữa bệnh trước khi bị kết án và khi đang chấp hành án phạt tù) hay chỉ áp dụng cho khoản 3 (chữa bệnh khi đang chấp hành án phạt tù).
"Thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù" tại Điều 49 là một nguyên tắc chung về việc quy đổi thời gian áp dụng biện pháp tư pháp này khi người đó phải chịu hình phạt tù. Với tư cách là một hình thức trách nhiệm hình sự, việc trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù khi người bị kết án phạt tù bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh không phụ thuộc người đó bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh ở khoản 1, 2, 3 Điều 49 BLHS.
Về kỹ thuật lập pháp, các nhà làm luật đặt câu này ở cuối khoản 3 Điều 49 BLHS là hoàn toàn có lý do.
Ở khoản 1 - Người thực hiện hành vi khi không có năng lực TNHS: Những người này về nguyên tắc là không bị kết án và không chịu hình phạt tù. Vì vậy, vấn đề khấu trừ không đặt ra.
Ở khoản 2 - Mắc bệnh trước khi bị kết án: Sau khi khỏi bệnh, người này "có thể phải chịu trách nhiệm hình sự". Việc họ có bị phạt tù hay không chỉ được quyết định sau khi họ khỏi bệnh và bị đưa ra xét xử.
Khoản 3 - Mắc bệnh khi đang chấp hành án tù: Đây là trường hợp duy nhất mà tại thời điểm áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, người đó chắc chắn đang có một bản án phạt tù. Do đó, việc đặt nguyên tắc khấu trừ ở đây là rõ ràng và hợp lý nhất về mặt câu chữ.
Nhiều người băn khoăn là nếu áp dụng cả khoản 2 để được trừ thời gian đi chữa bệnh bắt buộc vào thời gian chấp hành án tù thì sao án tù lại được trừ đi thời gian áp dụng biện pháp tư pháp (bắt buộc chữa bệnh)? Sự thắc mắc này xuất phát từ việc đồng nhất "trách nhiệm hình sự" với "hình phạt" và tách rời các hình thức khác của trách nhiệm hình sự như biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh.
Khi bị kết án thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mới bị coi là tội phạm có hậu quả pháp lý là trách nhiệm hình sự. Khi có trách nhiệm hình sự thì mới khấu trừ phần trách nhiệm hình sự đã chấp hành trước đó, có nghĩa là khấu trừ hình phạt tù.
Như đã phân tích ở trên, điểm chung mấu chốt giữa hình phạt tù và biện pháp bắt buộc chữa bệnh là người phạm tội đều bị tước đi quyền tự do. Họ không được tự ý đi lại, phải sống và sinh hoạt trong một cơ sở do Nhà nước chỉ định (một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh) và chịu sự quản lý, giám sát nghiêm ngặt.
Sự hạn chế tự do này là hậu quả pháp lý trực tiếp phát sinh từ hành vi nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của họ. Bắt buộc chữa bệnh không phải là biện pháp "tự nguyện", đây không phải như việc một công dân bình thường đi khám chữa bệnh. Đây là một biện pháp bắt buộc, được áp dụng bằng quyết định của tòa án hoặc VKS. Người bị áp dụng không có quyền từ chối.
Do đó, việc BLHS qui định tại khoản 3 Điều 49: “Thời gian bắt buộc chữa bệnh được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù” là với logic như vậy, không làm thay đổi việc khấu trừ đối với người bị kết án mà trước đó hoặc sau đó bị áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh.
TS PHAN ANH TUẤN, Trường Đại học Luật TP.HCM