Bên cạnh những ý kiến đồng tình ủng hộ thì cũng có không ít băn khoăn về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất hiện nay, và đặc biệt là phương pháp giảng dạy còn nặng về ngữ pháp.
Chuẩn bị slide và giáo cụ theo từng kế hoạch học tập cụ thể, có hình ảnh, video minh họa sinh động,… là công việc hàng ngày trước giờ lên lớp của chị Trần Thị Hoàn, giáo viên tại một trung tâm tiếng Anh ở Hà Đông, Hà Nội.
Theo chị Hoàn, việc tạo môi trường tràn ngập tiếng Anh, biến học thành chơi vừa nhẹ nhàng, vừa tạo thói quen phản xạ là rất quan trọng: "Đối với trường công, phương pháp giảng dạy còn thiên về ngữ pháp, từ vựng và bài tập viết, chủ yếu phục vụ thi cử. Học sinh thường ít có cơ hội luyện nói và nghe nên khả năng phản xạ và tự tin giao tiếp bằng tiếng Anh chưa cao. Trong khi đó, ở trung tâm, phương pháp giảng dạy hướng tới học để sử dụng, trẻ được phát triển đồng đều cả bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết".
Tiếng Anh không chỉ để học trong lớp, mà để học sinh từng bước sử dụng như một ngôn ngữ trong đời sống, nhất là khi chuẩn mực nguồn nhân lực tương lai đòi hỏi ngoại ngữ là kỹ năng tất yếu (Ảnh minh họa - Gemini A)
Trước thực tế việc dạy tiếng Anh tại các trường phổ thông hiện còn nặng về ngữ pháp, nhiều bậc phụ huynh rất đồng tình với Đề án Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học, và kỳ vọng trẻ được tiếp xúc với ngoại ngữ không chỉ từ sớm, mà chất lượng cũng ngày càng nâng cao:
"Tôi thấy bây giờ tiếng Anh rất phổ biến ở Việt Nam. Các con được học song song với tiếng Việt ngay từ lớp 1 thì là rất tốt. Tôi nghĩ là phải học theo phương pháp của trường quốc tế, biết nói trước sẽ thành thạo hơn, dễ hơn, chứ không phải tiếp thu ngữ pháp trước".
"Chắc chắn sẽ có khó khăn cho các bé vì còn cả tiếng Việt nữa, nhưng tôi nghĩ phương pháp dạy và cách cho các bé tiếp cận là quan trọng nhất. Như tôi học tiếng Anh 12 năm cũng chỉ là dạng học thuộc, nó sẽ không bao giờ nhớ lâu, không thành thói quen hàng ngày cho các bé".
Theo bà Nguyễn Huyền Trang, Hiệu trưởng Trường THCS Ngoại ngữ - UMS (Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội), việc đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học là bước đi chiến lược, phù hợp bối cảnh Việt Nam hội nhập mạnh mẽ về giáo dục, khoa học và kinh tế.
Đề án không chỉ dạy ngoại ngữ sớm, mà còn hướng tới xây dựng môi trường sử dụng tiếng Anh tự nhiên trong học đường, nơi học sinh dùng tiếng Anh như công cụ học tập và tư duy, từ đó hình thành thế hệ công dân tự tin hội nhập nhưng vẫn giữ được bản sắc.
Tuy nhiên, theo bà Trang, khó khăn lớn nhất hiện nay là sự chênh lệch về nguồn lực giữa các vùng miền, nhiều nơi còn thiếu giáo viên ở cấp tiểu học, trình độ giáo viên chưa đồng đều, các điều kiện về công cụ, học liệu vẫn còn hạn chế.
Tại xã biên giới Ia Mơ, tỉnh Gia Lai, ông Ngô Văn Vững, Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn Trường Tiểu học và THCS Nguyễn Văn Trỗi bày tỏ nhiều băn khoăn: "Nhà trường hiện đang thiếu giáo viên giảng dạy bộ môn tiếng Anh: 1 giáo viên ở khối THCS, và một giáo viên dạy các lớp 3, 4, 5. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất của nhà trường đang còn thiếu và yếu. Nhà trường không có những thiết bị hỗ trợ công nghệ cho việc phát triển kỹ năng nghe, kỹ năng nói của học sinh.
Về học sinh, nhà trường có tới 87% học sinh là người dân tộc thiểu số, chủ yếu các em là người Gia Rai. Các em ở lớp 1, lớp 2 đang tiếp cận với tiếng Việt như là một ngôn ngữ thứ hai rồi, nên đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc học tập bằng tiếng Việt".
Thay vì giảng giải ngữ pháp hay chép chính tả, những tiết học đầu đời cần được thiết kế như những cuộc phiêu lưu nhỏ - nơi trẻ học qua hát, vẽ, kể chuyện, đóng vai (Ảnh minh họa - Gemini AI)
Ông Ngô Văn Vững cho biết thêm, trong năm học sau 2026-2027, trường Nguyễn Văn Trỗi là một trong 248 trường ở vùng biên giới được hỗ trợ xây trường bán trú, trường nội trú liên cấp, sẽ có phòng và các thiết bị hỗ trợ cơ bản trong việc dạy - học tiếng Anh.
Tuy nhiên, theo ông Vững, khó khăn lớn nhất vẫn từ phía học sinh. Do đó, khi xây dựng chương trình và học liệu liên quan, cần nghiên cứu sự khác biệt giữa các vùng miền, tránh gây áp lực trong việc tiếp nhận của học sinh.
Bên cạnh sự đầu tư của ngành giáo dục thì để đề án được triển khai thành công, rất cần sự nỗ lực và tâm huyết của các thầy cô đứng lớp.
Các CLB tiếng Anh cũng nên được tổ chức để học sinh được sử dụng ngoại ngữ một cách tự nhiên ngoài giờ học. Hình ảnh tại Trường Tiểu học và THCS Nguyễn Văn Trỗi, xã Ia Mơ, tỉnh Gia Lai (Ảnh NVCC)
Thầy Lê Tấn Thời, giáo viên Trường THCS Nguyễn Đăng Sơn, xã Chợ Mới, tỉnh An Giang cho rằng, điểm mấu chốt là cần thay đổi tư duy giảng dạy của giáo viên để tiếng Anh là một ngôn ngữ và công cụ tiếp cận thế giới: "Người thầy không chỉ đơn thuần là người truyền thụ kiến thức, mà phải là người thổi hồn vào các hoạt động liên quan, giúp học sinh yêu thích, lan tỏa tinh thần học hỏi để ứng dụng tiếng Anh vào thực tế cuộc sống.
Thứ hai, phải giảm sĩ số học sinh trong lớp. Với số lượng học sinh quá tải như hiện nay, rất khó để giáo viên tổ chức những hoạt động học tập có chất lượng đúng nghĩa. Thứ ba, ứng dụng công nghệ và AI trong giảng dạy phải thực chất và đạt hiệu quả cao.
Thứ tư, các trường sư phạm phải có những tiêu chí cụ thể theo tiến trình thực hiện của đề án để bồi dưỡng năng lực và đào tạo nguồn giáo viên tiếng Anh trong tương lai. Trong đó, chú trọng tiêu chí chất lượng và thực chất".
Ngoài ra, chúng ta có thể học hỏi được kinh nghiệm của những quốc gia như Nhật Bản hay Hàn Quốc, việc phân bổ các nguồn lực để đảm bảo sự cân bằng giữa khu vực thành thị với khu vực nông thôn. Đặc biệt, chúng tôi thấy nên nhấn mạnh được vai trò của các hoạt động hợp tác quốc tế để các nhà trường có cơ hội tạo ra mong muốn, nhu cầu sử dụng tiếng Anh tốt hơn cho học sinh".
Các chính sách đãi ngộ, khuyến khích giáo viên tiếng Anh về vùng xa công tác là rất quan trọng (Ảnh minh họa - Gemini AI)
Chủ trương đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học cho thấy tầm nhìn dài hạn của Chính phủ và ngành giáo dục trong thời kỳ hội nhập sâu rộng. Tiếng Anh vào nhà trường không chỉ để học trong lớp, mà để trẻ từng bước sử dụng như một ngôn ngữ trong đời sống, nhất là khi chuẩn mực nguồn nhân lực tương lai đòi hỏi ngoại ngữ là kỹ năng tất yếu.
Trường học vì thế không chỉ truyền đạt kiến thức nền tảng, mà còn khơi mở phương pháp và cảm hứng học tập, giúp học sinh hình thành nhận thức đúng: học để làm chủ ngôn ngữ - chìa khóa mở ra thế giới, chứ không phải học để thi cử. Nhờ đó, các em có thể tự học và thực hành linh hoạt ngoài khuôn khổ thời lượng hạn chế ở trường.
Những đứa trẻ chập chững vào lớp 1, vừa tập nhận biết mặt chữ, vừa bước chân vào hành trình khám phá tiếng Anh - một ngôn ngữ mới, một thế giới mới. Đề án Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học không chỉ là thay đổi một mốc thời gian dạy học, mà còn mở ra cánh cửa để thế hệ mới của Việt Nam tiếp xúc sớm hơn với nhịp đập toàn cầu.
Học tiếng Anh sớm là xu thế tất yếu. Trẻ nhỏ có khả năng tiếp thu âm thanh, nhịp điệu và cách phát âm tự nhiên hơn người lớn. Nhưng khả năng ấy chỉ nảy nở trong môi trường phù hợp. Thực tế nhiều năm qua cho thấy, không ít học sinh vẫn đang học ngoại ngữ theo kiểu để thi, ít giao tiếp. Trẻ có thể thuộc từ vựng, nhớ ngữ pháp, nhưng lại ngại nói, sợ sai. Nếu cách dạy cũ được mang xuống lớp 1 thì “ngôn ngữ thứ hai” rất dễ trở thành gánh nặng thay vì niềm vui.
Nhiều quốc gia đã thành công lớn nhờ chiến lược dạy tiếng Anh sớm, khoa học và gần gũi. Ở Hà Lan, trẻ em bắt đầu học tiếng Anh từ mẫu giáo qua trò chơi và âm nhạc, không bị ép ghi nhớ mà được khuyến khích nói và nghe trong tình huống tự nhiên.
Singapore biến tiếng Anh thành ngôn ngữ cầu nối giữa các cộng đồng, dạy học bằng phương pháp song ngữ linh hoạt, nơi tiếng mẹ đẻ và tiếng Anh được dùng đan xen trong sinh hoạt hàng ngày. Điểm chung của họ là coi tiếng Anh không phải môn học, mà là công cụ sống; không dạy để thi, mà dạy để dùng.
Đây là kinh nghiệm quý để Việt Nam học hỏi, xây dựng một môi trường học tập nhiều năng lượng tích cực. Trẻ em học tốt nhất khi được chơi, được khám phá, được khen ngợi. Thay vì giảng giải ngữ pháp hay chép chính tả, những tiết học đầu đời cần được thiết kế như những cuộc phiêu lưu nhỏ - nơi trẻ học qua hát, vẽ, kể chuyện, đóng vai.
Các CLB tiếng Anh cũng nên được tổ chức để học sinh được sử dụng ngoại ngữ một cách tự nhiên ngoài giờ học. Những cách dạy sinh động cũng cần được điều chỉnh phù hợp qua từng cấp, để ngôn ngữ, khi được gắn với cảm xúc, sẽ tự “thấm” vào trí nhớ và trái tim một cách tự nhiên hơn.
Cơ sở vật chất, thiết bị nghe nhìn, học liệu số phải được đầu tư đồng bộ, bởi những trải nghiệm trực quan, sinh động sẽ giúp học sinh cảm nhận ngôn ngữ tốt hơn bằng tất cả giác quan (Ảnh minh họa - Gemini AI)
Đằng sau những giờ học đầy hứng khởi, nền tảng quan trọng nhất là đội ngũ giáo viên. Hiện nhiều trường ở nông thôn và miền núi vẫn thiếu thầy cô, chứ chưa nói đến việc đạt chuẩn. Do đó, các chính sách đãi ngộ, khuyến khích giáo viên tiếng Anh về vùng xa công tác là rất quan trọng, không chỉ về mặt tài chính mà còn về cơ hội phát triển nghề nghiệp và môi trường làm việc.
Với đội ngũ giáo viên hiện có, ngành giáo dục cũng cần có những chương trình bồi dưỡng thường xuyên, trực tiếp hoặc hỗ trợ qua mạng lưới đào tạo từ xa, giúp thầy cô làm chủ phương pháp giảng dạy hiện đại, ứng dụng công nghệ linh hoạt và tạo ra môi trường học tập tương tác.
Chương trình đào tạo sinh viên sư phạm cũng cần được cập nhật, thích ứng với bối cảnh mới, để những người gieo “hạt giống” ngôn ngữ không chỉ giỏi chuyên môn, mà còn thấu hiểu tâm lý lứa tuổi, biết cách khơi dậy niềm hứng thú học tập.
Bên cạnh yếu tố con người là công cụ hiện đại. Cơ sở vật chất, thiết bị nghe nhìn, học liệu số phải được đầu tư đồng bộ, bởi những trải nghiệm trực quan, sinh động sẽ giúp trẻ cảm nhận ngôn ngữ tốt hơn bằng tất cả giác quan. Sự đầu tư càng phải được nhấn mạnh ở vùng sâu, vùng xa, những nơi điều kiện kinh tế và giáo dục còn nhiều hạn chế để đảm bảo sự công bằng trong cơ hội học tập và mở cánh cửa hội nhập.
Chương trình dạy tiếng Anh cũng không thể áp dụng cùng một mô hình. Trẻ em vùng cao, nhất là các em dân tộc thiểu số, đã phải học tiếng Việt như ngôn ngữ thứ hai, nếu thêm tiếng Anh mà không có cách tiếp cận phù hợp thì dễ rơi vào trạng thái quá tải ngôn ngữ. Vì vậy, chương trình cần được thiết kế linh hoạt, phù hợp từng vùng miền, để trẻ cảm nhận ngôn ngữ bằng giác quan thay vì áp lực ghi nhớ.
Xa hơn, ngành giáo dục có thể tận dụng công nghệ để xây dựng hệ sinh thái học tiếng Anh cho trẻ nhỏ, từ ứng dụng tương tác đến nền tảng học trực tuyến có nội dung Việt hóa phù hợp lứa tuổi. Khi công nghệ được thiết kế cho trẻ học chủ động, không áp lực thì việc học tiếng Anh sẽ trở nên gần gũi hơn, và cũng là giải pháp thu hẹp khoảng cách giữa các vùng miền.
Bên cạnh việc học ở trường, môi trường học tập tại nhà cũng có ý nghĩa rất quan trọng để duy trì phản xạ ngôn ngữ. Dù có thể không giỏi tiếng Anh, nhưng phụ huynh vẫn cần đồng hành bằng sự quan tâm và khích lệ, tạo cơ hội cho con tiếp xúc trong đời sống hàng ngày, từ việc gợi ý các chương trình tiếng Anh, tra cứu tài liệu, đến chia sẻ niềm vui khi con tiến bộ.
Điều quan trọng là vừa quan tâm, vừa không tạo áp lực thành tích để con cảm nhận tiếng Anh như một người bạn gần gũi, chứ không phải là nhiệm vụ phải hoàn thành.
Nếu được triển khai đúng cách và thực sự quyết tâm, thì chủ trương đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai có thể trở thành bước ngoặt lớn của giáo dục Việt Nam trong thập kỷ tới. Bởi tiếng Anh không chỉ là công cụ giao tiếp, mà còn là chìa khóa mở ra tri thức, văn hóa, tư duy toàn cầu.
Khi mọi lực lượng cùng chung tay, từ nhà trường, gia đình đến xã hội, thì ngôn ngữ ấy sẽ vang lên từ lớp học đến đời sống, góp phần hình thành một thế hệ công dân Việt Nam tự tin hội nhập thế giới.
Minh Hiếu/VOV-Giao thông