Cuộc sống của người dân xã Hướng Hóa (Quảng Trị) đã được cải thiện nhờ trồng cây cà phê chất lượng cao.
Theo Bộ Dân tộc và Tôn giáo, việc ban hành Nghị định này nhằm tạo cơ sở pháp lý để xác định đúng và trúng các nhóm dân tộc còn yếu thế, từ đó ưu tiên nguồn lực đầu tư, hỗ trợ có trọng tâm và trọng điểm, giải quyết những vấn đề bức xúc, cấp bách nhất hiện nay.
Mục tiêu xuyên suốt là bảo vệ, bảo tồn và phát triển bền vững các dân tộc thiểu số trên nhiều lĩnh vực kinh tế – xã hội, đồng thời rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
XÁC ĐỊNH RÕ TIÊU CHÍ DÂN TỘC CÒN KHÓ KHĂN, KHÓ KHĂN ĐẶC THÙ
Nghị định 255/2025/NĐ-CP kế thừa và triển khai tinh thần của Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội, nhấn mạnh việc ưu tiên hỗ trợ hộ nghèo, các nhóm dân tộc thiểu số khó khăn nhất, bảo đảm sự phát triển hài hòa, công bằng, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Nghị định gồm 09 điều, quy định cụ thể về đối tượng, nguyên tắc, tiêu chí và quy trình xác định các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù trong giai đoạn 2026 – 2030.
Theo đó, dân tộc còn gặp nhiều khó khăn được xác định là dân tộc có tỷ lệ nghèo đa chiều cao hơn tỷ lệ nghèo đa chiều bình quân chung của các dân tộc thiểu số trong cả nước. Đây là tiêu chí phản ánh trực tiếp điều kiện kinh tế – xã hội và mức sống của đồng bào, đồng thời là căn cứ để Nhà nước định hướng chính sách đầu tư, hỗ trợ thiết thực.
Bên cạnh đó, dân tộc có khó khăn đặc thù được định nghĩa là dân tộc có dân số toàn quốc dưới 10.000 người, theo dữ liệu quản lý dân cư, và đáp ứng ít nhất một trong hai tiêu chí sau: Có tỷ lệ nghèo đa chiều cao hơn mức bình quân chung của dân tộc thiểu số cả nước; Có dân số giảm so với kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019.
Các tiêu chí này được xây dựng dựa trên dữ liệu thống kê chính thức của Nhà nước, bảo đảm tính khách quan, minh bạch và khả năng so sánh giữa các dân tộc. Việc kết hợp cả yếu tố tỷ lệ nghèo và quy mô dân số giúp phản ánh toàn diện mức độ khó khăn và nguy cơ suy giảm phát triển của từng dân tộc, qua đó giúp Chính phủ có cơ sở khoa học để phân bổ nguồn lực phù hợp, tránh dàn trải, đồng thời bảo đảm ưu tiên cho nhóm dân tộc đặc biệt thiểu số, có nguy cơ giảm dân số.
BA BƯỚC RÀ SOÁT XÁC ĐỊNH CÁC DÂN TỘC GẶP NHIỀU KHÓ KHĂN
Nghị định 255/2025/NĐ-CP cũng quy định quy trình xác định các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù một cách rõ ràng, chặt chẽ và có sự tham gia của nhiều cấp chính quyền.
Bước thứ nhất – Rà soát tại cấp xã: Các Ủy ban nhân dân cấp xã (bao gồm xã, phường, đặc khu) có trách nhiệm tổ chức rà soát, thống kê số liệu về tổng dân số, tổng số hộ, số hộ nghèo, hộ cận nghèo của từng dân tộc trên địa bàn, theo Mẫu số 01 ban hành kèm theo Nghị định. Kết quả được gửi dưới dạng 01 hồ sơ điện tử và 01 hồ sơ giấy cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận chỉ đạo triển khai.
Dữ liệu về dân số của từng dân tộc phải được thống kê theo dữ liệu quản lý dân cư trong vòng 15 ngày kể từ ngày Nghị định có hiệu lực.
Số liệu về hộ nghèo, hộ cận nghèo được thống kê trên cơ sở kết quả rà soát năm 2024.
Bước thứ hai – Tổng hợp và thẩm định tại cấp tỉnh: Sau khi nhận được báo cáo từ cấp xã, UBND cấp tỉnh sẽ chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tổng hợp, rà soát, thẩm định và chịu trách nhiệm toàn diện về độ chính xác của số liệu, theo Mẫu số 02. Trong 30 ngày làm việc kể từ khi Nghị định có hiệu lực, địa phương phải gửi báo cáo tổng hợp (01 bản điện tử, 01 bản giấy) về Bộ Dân tộc và Tôn giáo.
Bước thứ ba – Tổng hợp và phê duyệt ở cấp Bộ: Sau khi nhận đủ báo cáo của các địa phương, trong 30 ngày làm việc, Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo sẽ rà soát, tổng hợp và ban hành Quyết định phê duyệt danh sách các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù giai đoạn 2026 – 2030 trên phạm vi toàn quốc.
Quy trình ba cấp này đảm bảo tính chính xác, khách quan và đồng bộ dữ liệu giữa các địa phương, đồng thời tạo cơ sở cho việc xây dựng chính sách dân tộc trọng tâm, tránh trùng lặp hoặc bỏ sót đối tượng cần hỗ trợ.
Nghị định 255/2025/NĐ-CP là bước tiến quan trọng trong hoàn thiện khung chính sách dân tộc, góp phần triển khai hiệu quả các chương trình phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026 – 2030. Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 15/11/2025.
Minh Hiếu