Toàn cảnh Diễn đàn. (Ảnh: Trịnh Tú)
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho biết 7 tháng qua cũng là thời điểm đặc biệt với nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp. Niềm tin kinh doanh được bồi đắp từ những đổi mới mang tính chất cách mạng.
Nhiều chủ trương đường lối với tư duy mới, cách tiếp cận mới được ban hành như "Bộ tứ Nghị quyết trụ cột", thực hiện sắp xếp bộ máy, sắp xếp đơn vị hành chính gắn với mô hình chính quyền 2 cấp đã và đang mở đường cho giai đoạn phát triển mới của đất nước, thúc đẩy đưa nguồn vốn từ khu vực tư nhân vào nền kinh tế.
Tuy nhiên, theo Phó Chủ tịch VCCI, doanh nghiệp đang tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy biến động như căng thẳng địa chính trị làm tái định hình chuỗi giá trị toàn cầu; Mỹ áp thuế đối ứng 20% với hàng Việt; nhiều thị trường áp dụng hàng rào phi thuế quan, yêu cầu khắt khe về môi trường, lao động, minh bạch nguồn gốc…
Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước áp lực phải đổi mới để duy trì tăng trưởng và cạnh tranh trên cả thị trường trong nước và quốc tế, chịu áp lực phải đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng, môi trường, lao động và trách nhiệm xã hội.
Tận dụng FTA, mở rộng thị trường
Các chuyên gia nhận định chung rằng, việc tìm kiếm “giải pháp đột phá” không chỉ dừng ở đổi mới sản phẩm, dịch vụ, mà còn bao gồm nâng cấp năng lực quản trị, ứng dụng công nghệ số, xây dựng thương hiệu, và tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết để mở rộng thị trường.
Theo số liệu từ Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2024 đạt hơn 335 tỷ USD, nhưng để duy trì đà tăng trưởng này, doanh nghiệp cần có chiến lược tiếp cận thị trường hiệu quả hơn. Hiện, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu các ngành nghề chủ lực lẫn các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước đều đang xây dựng kế hoạch tìm kiếm các thị trường mới để ứng phó với rủi ro thuế quan, với những bất định của kinh tế toàn cầu.
Phó Chủ tịch VCCI Hoàng Quang Phòng phát biểu tại sự kiện. (Ảnh: Trịnh Tú)
“Đây được xem là hướng đi chiến lược bền vững và lâu dài khi Việt Nam đã tham gia 17 FTA với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ cùng 70 cơ chế hợp tác song phương. Khai thác hiệu quả dư địa và lợi thế này sẽ giúp các doanh nghiệp đa dạng thị trường xuất khẩu, giảm phụ thuộc vào thị trường lớn nhất”, ông Hoàng Quang Phòng nhấn mạnh.
TS. Nguyễn Văn Hội, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương, nhấn mạnh vai trò then chốt của các FTA trong việc mở rộng thị trường, đặc biệt với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Đặc biệt, các FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) không chỉ thúc đẩy tự do thương mại hàng hóa và dịch vụ, mà còn bao hàm những lĩnh vực “phi truyền thống” như lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, minh bạch hóa và cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư, đặt ra tiêu chuẩn cao hơn và yêu cầu thực thi chặt chẽ hơn.
Theo TS. Nguyễn Văn Hội, các FTA là “đường cao tốc” đưa hàng hóa Việt Nam đến gần hơn với người tiêu dùng toàn cầu. Chúng không chỉ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, mở rộng quy mô và đa dạng hóa thị trường, mà còn giúp doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất nhờ ưu đãi thuế quan. Đồng thời, các FTA cũng tạo áp lực để hệ thống chính sách, pháp luật trong nước trở nên minh bạch, thuận lợi và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, đồng thời tạo điều kiện để nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thị trường Việt Nam nhanh chóng hơn.
TS. Nguyễn Văn Hội đề xuất Nhà nước cần tập trung phát triển công nghiệp chế biến chế tạo, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao giá trị nông sản qua truy xuất nguồn gốc; mở rộng thị trường xuất khẩu theo hướng bền vững; hoàn thiện thể chế và hạ tầng logistics; giảm chi phí vận chuyển.
Đồng thời thẳng thằn nhìn nhận các doanh nghiệp cũng cần nâng cao vai trò hiệp hội ngành hàng trong giải quyết tranh chấp thương mại, phát triển doanh nghiệp tư nhân theo Nghị quyết 68-NQ/TW, khuyến khích hình thành doanh nghiệp đầu tàu trong chuỗi giá trị; tăng kết nối giữa FDI và doanh nghiệp trong nước; hỗ trợ vượt rào cản thương mại quốc tế.
Còn theo TS. Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam , thay vì đặt ra mục tiêu xuất khẩu gắn với những con số cụ thể mà căn cứ vào những tiêu chí khác như giá trị gia tăng, tỷ lệ nội địa hóa… sẽ mang ý nghĩa định hướng lớn hơn rất nhiều cho nền kinh tế, các cơ quan quản lý, cộng đồng doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Doanh nghiệp chủ động thay đổi mình
Chia sẻ tại Diễn đàn, ông Nguyễn Trung Tuyến, Chủ tịch Cộng đồng Doanh nghiệp giá tốt Việt Nam nhận định, bức tranh kinh tế toàn cầu năm 2025 biến động nhanh và khốc liệt, cơ hội có thể xuất hiện nhưng cũng có thể khép lại nếu doanh nghiệp không đủ tốc độ và sáng tạo. “Với hơn 97% doanh nghiệp Việt Nam là vừa và nhỏ, lực lượng này giữ vai trò xương sống của nền kinh tế nhưng phần lớn vẫn đơn độc, thiếu nguồn lực và thị trường”, ông Tuyến nói.
Hiện ngành đồ gỗ xuất khẩu vào hơn 160 thị trường; trong đó Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, Trung Quốc chiếm hơn 90% sản lượng. Thuế xuất khẩu đồ gỗ vào Mỹ khoảng 20%, thấp hơn so với một số quốc gia cạnh tranh, nên không đáng lo ngại. Tuy nhiên, với 55% sản lượng gỗ xuất khẩu sang Mỹ và chiếm 38-40% tổng kim ngạch nhập khẩu gỗ nội thất của Mỹ, những biến động của thị trường này sẽ tác động mạnh đến doanh nghiệp Việt Nam.
Ông Hoài nhấn mạnh: “Đây là thời điểm để doanh nghiệp gỗ trong nước nhìn lại mình, tìm kiếm cơ hội tăng trưởng mới ở thị trường truyền thống, nhưng một doanh nghiệp đơn lẻ khó thực hiện, cần liên kết thành một nhóm đủ mạnh”.
Đối với ngành dệt may, ông Phí Ngọc Trịnh, Tổng Giám đốc Tập đoàn Hồ Gươm cho biết, xuất khẩu dệt may Việt Nam với kim ngạch dự kiến đạt 47 - 48 tỷ USD vào năm 2025, tăng 10% so với 2024. Tuy nhiên, ngành đang đối mặt với hàng loạt thách thức như cạnh tranh giá gay gắt, yêu cầu tiêu chuẩn xanh, biến động kinh tế – chính trị toàn cầu, phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu, rào cản thương mại, và thiếu hụt nhân lực kỹ thuật cao.
Để phát triển thị trường, ông Trịnh đề xuất đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đặc biệt giảm phụ thuộc vào Mỹ và EU bằng cách khám phá các thị trường mới như Nga, Brazil, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ. Phát triển sản phẩm mới và cải tiến sản phẩm hiện có. Thông qua nghiên cứu và phát triển, đầu tư vào công nghệ, và hợp tác chiều sâu để bắt kịp xu hướng thời trang quốc tế.
Từ góc nhìn của ngành du lịch, ThS Nguyễn Tiến Đạt, Giám đốc Công ty Du lịch AZA, Phó Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Hà Nội chỉ ra rằng, du lịch Việt Nam trước đây chủ yếu khai thác tài nguyên thiên nhiên thô và ẩm thực giá rẻ, thu hút khách thu nhập thấp. Tuy nhiên, xu hướng toàn cầu đòi hỏi sản phẩm và dịch vụ hiện đại, tiện ích và minh bạch hơn. Chuyển đổi số trở thành công cụ then chốt để nâng cấp toàn bộ quy trình, tiếp cận hiệu quả hơn các nhóm khách quốc tế ở thị trường phát triển.
Đây là thời điểm để doanh nghiệp gỗ trong nước nhìn lại mình, tìm kiếm cơ hội tăng trưởng mới ở thị trường truyền thống. (Nguồn: VnEconomy)
Để giải quyết những bất cập, ông Đạt đề xuất xây dựng nền tảng du lịch số quốc gia, kết nối dữ liệu từ trung ương đến địa phương và doanh nghiệp. Ứng dụng công nghệ 4.0 như Chatbot đa ngôn ngữ, trải nghiệm thực tế ảo/tăng cường, thẻ du lịch thông minh không tiền mặt. Ngoài ra, ngành du lịch cho hướng dẫn viên, nhân viên khách sạn, điều hành tour. Hợp tác với tổ chức quốc tế để chia sẻ dữ liệu và chuyển giao công nghệ.
Các ý kiến tại Diễn đàn đều đồng thuận rằng sự gắn kết giữa các doanh nghiệp, sự hỗ trợ từ các hiệp hội, và cơ chế chính sách thuận lợi từ Nhà nước là yếu tố then chốt.
Có thể thấy, việc tiếp cận và khai thác hiệu quả các thị trường mới gắn liền với quá trình tái cơ cấu các ngành hàng xuất khẩu của nền kinh tế cũng như tái cấu trúc hoạt động sản xuất kinh doanh. Quá trình chuyển đổi này không dễ dàng, không diễn ra trong ngày một ngày hai.
Các chuyên gia đều nhận định rằng, ngoài những nỗ lực tự thân, doanh nghiệp cần sự tiếp sức từ Chính phủ, các bộ ngành trong việc xây dựng chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, cơ chế phù hợp phát triển công nghệ hỗ trợ, gia tăng tỷ lệ nội địa hóa…Các giải pháp cần thực hiện từ phía cơ quan quản lý Nhà nước, địa phương nhằm hòa giải các vướng mắc tồn tại đưa sản phẩm hàng hóa mang thương hiệu Việt vươn xa đến nhiều thị trường mới.
Trịnh Tú