Thách thức ngày càng lớn từ nước biển dâng và sóng lớn
Ngập lụt ven biển là một trong những thảm họa nghiêm trọng nhất trong các cơn bão nhiệt đới. Tại Việt Nam có 3.260km đường bờ biển, trong đó gần 2/3 thường xuyên hứng chịu bão, áp thấp nhiệt đới, sóng lớn, nước biển dâng.
Từ đầu năm 2025 đến nay, Biển Đông đã xuất hiện 14 cơn bão, nhiều cơn đổ bộ vào đất liền nước ta, gây thiệt hại lớn. Tình trạng ngập lụt, phá hủy đê kè, đắm tàu thuyền, mất nuôi trồng thủy sản… liên tục xảy ra tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Bình Định, Phú Yên.
Những năm qua, nghiên cứu về ngập lụt ven biển đã có nhiều tiến bộ nhờ sự phát triển của khoa học khí tượng - hải văn và năng lực tính toán. Tuy nhiên, việc ứng dụng kết quả nghiên cứu vào dự báo nghiệp vụ tại Việt Nam vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do sự tương tác phức tạp giữa các yếu tố thủy triều, sóng, dòng chảy sông và nước dâng do bão chưa được mô phỏng đầy đủ.
Nhiều mô hình trước đây phải giả định đơn giản hóa, chưa phản ánh chi tiết đặc điểm địa hình ven biển, hệ thống đê điều và khu dân cư. Điều này khiến khả năng dự báo mức độ ngập cụ thể theo không gian còn hạn chế.
Mô hình cảnh báo bão lũ thế hệ mới
Trước nhu cầu cấp bách, “Nghiên cứu xây dựng bộ mô hình và quy trình công nghệ dự báo ngập lụt vùng ven biển do nước dâng và sóng trong bão” do PGS.TS Nguyễn Bá Thủy làm Chủ nhiệm, Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia là cơ quan chủ trì đã được triển khai từ tháng 12/2022 đến tháng 11/2025.
Mô hình được ứng dụng thử nghiệm tại vùng ven biển tỉnh Thanh Hóa, khu vực thường xuyên chịu ảnh hưởng của bão mạnh. Với bản đồ chi tiết tỷ lệ 1/10.000, nhiều kịch bản bão kết hợp triều cường đã được xây dựng, cho phép đánh giá mức độ ngập tại các khu dân cư, đê điều, khu nuôi trồng thủy sản và hạ tầng ven biển.
Sau 36 tháng thực hiện, đề tài đạt được nhiều kết quả quan trọng: đánh giá được tác động của tương tác thủy triều, sóng và nước dâng do bão tại bờ tây Vịnh Bắc Bộ; làm rõ ảnh hưởng của thủy triều, sóng, dòng chảy sông và hệ thống đê tới ngập lụt ven biển Thanh Hóa; xây dựng bộ bản đồ nguy cơ ngập lụt theo các kịch bản bão trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nước biển dâng.
Đặc biệt, quy trình dự báo ngập lụt đã được thử nghiệm trong mùa bão năm 2025, cho kết quả có độ tin cậy cao khi so sánh với thực tế, từng bước đáp ứng yêu cầu dự báo nghiệp vụ.
Ông Hoàng Đức Cường - Phó Cục trưởng Cục Khí tượng Thủy văn đánh giá đề tài đã bám sát mục tiêu, sản phẩm có tính ứng dụng cao và có thể sớm triển khai phục vụ công tác dự báo nghiệp vụ. Theo ông, mô hình khi được ứng dụng rộng rãi sẽ góp phần quan trọng vào cảnh báo sớm, giảm thiểu thiệt hại do bão, nước dâng và sóng lớn tại các vùng ven biển.
Theo PGS.TS. Nguyễn Bá Thủy, giá trị lớn nhất của nghiên cứu là chuyển từ dự báo bão sang dự báo tác động. Tại Thanh Hóa, nơi thí điểm mô hình, bộ bản đồ ngập lụt ven biển theo các cấp bão 11 - 14 đã được xây dựng, kết hợp các kịch bản bão đổ bộ vào kỳ triều cường. Sản phẩm đã được chuyển giao và đào tạo sử dụng cho dự báo viên tại Đài Khí tượng Thủy văn Bắc Bộ, giúp địa phương chủ động hơn trong lập phương án ứng phó thiên tai.
Theo đánh giá của các chuyên gia, bộ mô hình hoàn toàn có thể nhân rộng cho nhiều địa phương ven biển như Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Bến Tre và Cà Mau - những nơi thường xuyên hứng chịu bão, nước biển dâng và triều cường. Đây sẽ là công cụ hỗ trợ ra quyết định quan trọng cho chính quyền địa phương trong sơ tán dân, bảo đảm an toàn tàu thuyền, bảo vệ hạ tầng du lịch, kinh tế biển và quy hoạch phát triển đô thị ven biển.
Cùng với nhu cầu cảnh báo bão lũ, nhu cầu giám sát tài nguyên và môi trường cũng ngày càng trở nên cấp thiết. Công nghệ vệ tinh quan sát Trái đất, đặc biệt là vệ tinh radar khẩu độ tổng hợp (Synthetic Aperture Radar - SAR) có khả năng đáp ứng đồng thời cả hai nhiệm vụ này. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với vệ tinh SAR cỡ nhỏ là phải sử dụng anten có khẩu độ lớn mới đạt được độ phân giải cao.
Xuất phát từ thách thức đó, nhiệm vụ “Nghiên cứu thiết kế, chế tạo hệ thống anten tự động triển khai cho vệ tinh SAR cỡ micro” do TS. Đoàn Thị Ngọc Hiền, Khoa Kỹ thuật truyền thông, Trường Điện - Điện tử, Đại học Bách khoa Hà Nội làm chủ nhiệm được xem là bước đi quan trọng nhằm làm chủ công nghệ lõi, phục vụ lộ trình phát triển vệ tinh Việt Nam đến năm 2030.
“Làm chủ công nghệ anten triển khai cho vệ tinh SAR cỡ micro không chỉ giúp Việt Nam tự chủ hơn trong công nghệ vũ trụ, mà còn tạo tiền đề để hình thành ngành công nghiệp vệ tinh nhỏ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội”, TS Hiền nhấn mạnh.
Linh Chi