Tín dụng vẫn phụ thuộc nhiều vào ngân hàng
So với những năm trước, tín dụng hiện nay tăng khá nhanh. Nhiều lãnh đạo ngân hàng chia sẻ rằng trong 6 tháng đầu năm, tín dụng đang tăng trưởng tốt. Tín dụng được hỗ trợ bởi nhu cầu thị trường vẫn có trong bối cảnh mặt bằng lãi suất đang ở mức thấp.
Ảnh minh họa
(VietinBank) ghi nhận tốc độ tăng trưởng tín dụng mạnh nhất trong nhóm 4 "ông lớn" quốc doanh. Đến 10/6, dư nợ tín dụng của ngân hàng đạt trên 1,9 triệu tỷ đồng, tăng 9,1% so với đầu năm. Tại Shinhan Bank Việt Nam, tăng trưởng tín dụng đến trung tuần tháng 6 cũng đạt trên 6,5%.
Ngoài ra, những ngân hàng có mức tăng tín dụng tốt trong quý đầu năm như MSB, Eximbank, VPBank, SHB, VietinBank vẫn tiếp tục đà tăng tốt trong quý II/2025.
Tăng trưởng tín dụng đã bật mạnh ngay từ đầu năm, nhờ vào chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt 8% năm 2025. Mặc dù vậy, trong phiên chất vấn tại Quốc hội ngày 19/6/2025, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng lưu ý rằng, trong 5 năm qua, tăng trưởng tín dụng trung bình đạt từ 14 - 15% mỗi năm. Vốn đầu tư trong nước hiện phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng, kể cả vốn trung và dài hạn.
Con số quy mô tín dụng đang phình to ra. Theo đó, tỷ trọng dư nợ trên GDP cuối năm 2024 đạt mức 134%, được xem là mức cao so với nhiều nước. Số liệu năm 2023 là 130%. Nếu nguồn vốn tiếp tục phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng, sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro cho hệ thống và nền kinh tế.
Thống đốc cho biết chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng sẽ được kiểm soát, điều chỉnh phù hợp thực tế. Chính sách tiền tệ cũng được điều hành linh hoạt, hợp lý để góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng. Bà nhấn mạnh để tăng trưởng cao, phát triển bền vững, các bộ ngành, nhất là Bộ Tài chính, cần lưu ý cân đối nguồn vốn cho các dự án đầu tư lớn, trọng điểm; thời gian phân kỳ, dự phòng vốn cho các dự án để không bị động và không tạo áp lực thu xếp vốn.
Rủi ro chất lượng tín dụng
Báo cáo cập nhật ngành Ngân hàng quý I/2025 do WiGroup thực hiện đánh giá, bức tranh ngành ghi nhận những điểm sáng về tăng trưởng tín dụng và lợi nhuận, nhưng cũng bộc lộ áp lực rõ rệt từ chất lượng tài sản và thu nhập lãi. Ngoài ra, mặt trái của đà tăng trưởng tín dụng là rủi ro chất lượng nợ gia tăng. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ toàn ngành đã lên tới 2,16%, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, tỷ lệ bao phủ nợ xấu suy giảm còn 80%, phản ánh chi phí trích lập dự phòng trong kỳ tăng chậm.
Điều này dấy lên lo ngại về nguy cơ dòng tín dụng không được phân bổ đúng mục đích. Theo các chuyên gia, nếu tín dụng được bơm mạnh vào những lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản hay chứng khoán, hệ thống ngân hàng có thể phải đối mặt với những biến động lớn, kéo theo hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế. Nếu không được kiểm soát chặt chẽ, dòng vốn dễ dàng "lệch pha", đi ngược lại với mục tiêu hỗ trợ sản xuất, kinh doanh và phục hồi kinh tế mà nhà điều hành đang hướng tới.
Trong số các lĩnh vực, bất động sản ghi nhận tốc độ tăng trưởng tín dụng rất đáng chú ý. Theo thống kê từ Bộ Xây dựng, riêng trong quý I/2025, tín dụng vào lĩnh vực này đã tăng 7,49%. Đặc biệt, phân khúc nhà ở xã hội đang có dấu hiệu phục hồi tích cực với tổng dư nợ đến cuối tháng 4 đạt 2.764 tỷ đồng, tăng 4,84% so với tháng trước.
Phó Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản Việt Nam, ông Nguyễn Văn Đính nhận định, bước sang năm 2025, với những thay đổi lớn về tổ chức bộ máy nhà nước và tái cấu trúc địa phương, nền kinh tế khởi sắc hơn đã kích hoạt lại làn sóng đầu tư vào địa ốc.
Nhiều chủ đầu tư đang tái khởi động các dự án nhờ được gỡ vướng pháp lý và rất cần dòng tiền. Không chỉ nhờ lực cầu từ thị trường, các ngân hàng cũng tích cực triển khai các gói vay linh hoạt với lãi suất hấp dẫn, đặc biệt nhắm vào nhóm người trẻ dưới 35 tuổi – đối tượng có nhu cầu mua nhà cao. Những chương trình này góp phần đáng kể vào đà tăng của tín dụng bất động sản thời gian gần đây.
Mới đây ngành ngân hàng công bố gói tín dụng quy mô 500.000 tỉ đồng từ cam kết của những ngân hàng thương mại, tài trợ hạ tầng và công nghệ. Nhưng với quy mô tín dụng đang mở rộng nhanh đi cùng rủi ro an toàn hệ thống, dòng vốn từ các nhà băng không thể là nơi cung ứng vốn duy nhất cho các dự án dài hạn.
“Cung tiền tăng mạnh sẽ dẫn đến giá hàng hóa tăng; giá tài sản chịu áp lực tăng lên, đặc biệt là bất động sản và cuối cùng là giá ngoại tệ tăng.”- PGS-TS Phạm Thế Anh, Trưởng khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân phân tích, so với cách đây 1 năm, tỷ giá hiện nay đã tăng 5%.
TS Nguyễn Trí Hiếu đồng quan điểm, việc tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro, và lãi suất khó có thể giảm thêm mà không gây áp lực lên tỷ giá. Ngoài ra, TS Nguyễn Trí Hiếu lưu ý, hiện nay tốc độ tăng trưởng huy động vốn của các NH đang thấp hơn tăng trưởng tín dụng. Cụ thể, tính đến 16/6, huy động chỉ ở mức 5,09%. Tăng trưởng tín dụng cao hơn so với huy động là điều đáng lo.
Theo các chuyên gia, Việt Nam nên tập trung vào việc ổn định nền kinh tế vĩ mô, củng cố niềm tin của doanh nghiệp và nhà đầu tư. Thách thức hiện nay là khơi thông các dòng vốn thay thế, tiến tới xây dựng một cấu trúc vốn đa dạng và cân bằng hơn. Chính sách phát triển cấu trúc vốn cần chuyển trọng tâm từ số lượng sang chất lượng, từ tốc độ tăng trưởng tín dụng sang hiệu quả sử dụng vốn và khả năng hấp thụ của nền kinh tế. Bên cạnh chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa cần được phát huy như một công cụ chủ chủ hốt để thúc đẩy tăng trưởng bền vững và thực chất. Khi các kênh huy động vốn này vận hành ổn định, thị trường sẽ giảm dần phụ thuộc vào dòng tiền ngắn hạn từ tín dụng.
Quy mô tín dụng/GDP đã ở mức khá cao. Tỷ lệ này càng cao thì rủi ro với doanh nghiệp và nền kinh tế càng lớn. Do đó, cần chú ý kiểm soát lưu chuyển dòng vốn này trong nền kinh tế, lường trước các rủi ro để có ứng phó kịp thời và hiệu quả. Muốn đa dạng hóa, phải có sản phẩm tài chính mới ngoài ngân hàng, phát triển các sản phẩm tài chính thay thế, như trái phiếu doanh nghiệp, tín dụng xanh và đặc biệt là hệ thống chấm điểm tín nhiệm độc lập.
(TS. Nguyễn Đức Độ, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Tài chính - Bộ Tài chính)
Thảo Nguyên