Tình báo Không lực Hoàng gia Thái Lan trong Thế chiến II

Tình báo Không lực Hoàng gia Thái Lan trong Thế chiến II
5 giờ trướcBài gốc
Hiệp ước Liên minh Thái – Nhật
Tháng 11/1941, chính phủ Thái Lan khá chắc chắn về cuộc chiến Nhật, Mỹ. Là quốc gia vùng đệm nằm giữa Miến Điện (thuộc địa Anh ở phía Tây) và Đông Dương (thuộc địa Pháp ở phía Đông), Thái Lan ủng hộ cường quốc mạnh nhất trong khu vực mà số đông người Thái hướng tới, Nhật Bản. Tuy vậy thông qua đào tạo và liên kết, cảm tình của RTAF nghiêng nhiều về Mỹ hơn là Nhật, điều này là bởi xuyên suốt thập niên 1930, Mỹ đã cung cấp nhiều chiến cơ cho RTAF.
Chưa hết, những phi công giỏi và sáng giá nhất của RTAF cũng được đào tạo tại Mỹ, chính xác là tại Trường chiến thuật Không quân đặt tại Maxwell Field (tiểu bang Alabama) trong suốt thập niên 1930. Ở đó họ đã phát triển mối quan hệ lâu dài với các đối tác người Mỹ cũng như tích hợp các chiến thuật Mỹ vào học thuyết chiến đấu của RTAF. Nhưng các nhà lãnh đạo Không lực Thái Lan lại không chia sẻ tình cảm thân Nhật của Thủ tướng Thái Lan khi đó là Nguyên soái Phibun Songkhram, và những nhân vật “máu mặt” bên trong quân đội.
Nhật xâm lược Bangkok vào ngày 8/12/1941. Vài giờ sau, Thái Lan tuyên chiến với Mỹ và Anh.
Ông Phibun, một người ủng hộ chủ nghĩa phát xít đã trở thành người ủng hộ Nhật Bản vào năm 1940 khi Nhật làm trung gian cho cuộc chiến ngắn ngủi giữa Thái Lan và chính phủ Vichy (phát xít Pháp). Đổi lại, Nhật đã gây sức ép thành công buộc người Pháp phải nhượng địa các lãnh thổ giáp giới Đông Dương về cho Thái Lan. Rõ ràng Phibun đã đứng về một phe với người Nhật. Mặt khác, RTAF sẵn sàng chiến đấu với quân Nhật nếu họ xâm lược. Và họ không phải chờ lâu.
Vào lúc 3 giờ sáng ngày 8/12/1941 (tức 7/12 giờ Trân Châu Cảng) các đơn vị quân đội Thiên hoàng bắt đầu đổ bộ dọc theo Kra Ishmus - một doi đất ở phía Nam thủ đô Bangkok. Các phi công RTAF từ Phi đội 5 đặt ở isthmus đã sẵn sàng nghênh chiến. Nhưng họ nhanh chóng bị áp đảo: phi công Maen Prasongdi dẫn đầu phi đội bằng chiếc chiến cơ 2 tầng cánh Curtiss Hawk III và được trang bị 4 quả bom nhỏ dưới cánh cố gắng tấn công các tàu chở quân ở hải cảng phía Đông trước khi bị bắn hạ bởi hỏa lực phòng không.
Khi lính và xe tăng Nhật bao vây sân bay, chỉ huy phi đội đã hạ lệnh đốt cháy toàn bộ nhà cửa tại đó và rút lui vào rừng để tiếp tục chiến đấu. Xa hơn về phía Bắc, tại biên giới Thái Lan - Campuchia (phía Đông Bangkok), sư đoàn cận vệ Thiên hoàng đã tấn công quân Thái dù chỉ có sức kháng cự tượng trưng. Trên trời, các đơn vị trực thuộc Lữ đoàn không quân số 10 của quân đội Thiên hoàng đã yểm trợ cho cuộc tấn công bằng 11 chiến cơ Nakajima Ki-27 “Nate” cùng với 9 oanh tạc cơ hạng nhẹ Mitsubishi Ki-30 (hay “Ann”).
Lúc khoảng 6 giờ sáng, các phi công của Phi đội số 43 thuộc RTAF phát giác địch trên đầu mình; 3 người liền nhảy lên những chiếc Hawk III để giao chiến. Trong cuộc chạm trán ngắn ngủi sau đó, những chiếc Nate đã nhanh chóng bắn hạ toàn bộ 3 phi công Hawk III. Sau 7 giờ sáng, Nguyên soái Phibun đã tập hợp nội các của mình, họ nhanh chóng kết luận kháng cự sẽ là vô ích, nửa giờ sau chính phủ Thái tuyên bố đình chiến.
Không còn lựa chọn, người Thái tuyên hàng. Riêng phi đội 5 vẫn điên cuồng chiến đấu đến trưa hôm sau. Đơn vị này mất 38 phi công cùng 27 người khác bị thương; bên phía Nhật có 115 phi công tử trận. Khi quân Nhật tiến vào Bangkok, trước mối họa xâm lăng cùng lời dọa dẫm chiến tranh, lập trường thân Nhật của ông Phibun đã bị khuất phục. Ngày 21/12/1941, Thủ tướng Phibun đã đặt bút ký Hiệp ước liên minh với Nhật Bản và thanh trừng tất cả những người chống đối liên minh này trong chính phủ của mình.
Một tháng sau đó, khi các chiến cơ Buffalo của Không lực Hoàng gia Anh (BRAF) tiến hành oanh tạc các sân bay do quân Nhật chiếm đóng ngay bên trong biên giới Thái Lan, Thủ tướng Phibun đã tuyên chiến với cả Anh và Mỹ. Lời tuyên chiến và hiệp ước liên minh với Nhật Bản đã đặt RTAF vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan đau khổ: vừa mất máy bay và phi công khi kháng Nhật, hầu hết tướng lĩnh không quân Thái không còn tâm ý nào để hợp tác với người Nhật. Chỉ huy RTAF, Phó nguyên soái Không quân Atueg Tevadej cuối cùng ra tuyên bố: “Các đồng chí không nhất thiết thích người Nhật, cứ điềm tĩnh thực hiện lệnh của ngài Phibun”.
Chiến đấu cho Nhật, đối đầu Mỹ
Đầu năm 1942, phi đội oanh tạc cơ của BRAF đồn trú ở Miến Điện thỉnh thoảng giao chiến với các chiến cơ của RTAF dọc theo biên giới Thái Lan. Vào ngày 22/1/1942, sau khi tập đoàn quân số 15 của quân đội Nhật từ Thái Lan phát động xâm lược Miến Điện, các cuộc không chiến dần lắng xuống khi máy bay Anh không thể tiếp cận. Kết quả, RTAF chuyển mọi hoạt động sang Tây Bắc Thái Lan cho một nhiệm vụ mới thay mặt Nhật Bản: đánh đuổi quân Trung Quốc ở bang Shan, một địa phương miền núi giáp Miến Điện, Thái Lan, Lào, và một góc nhỏ Trung Quốc.
Ngày 10/5/1942, quân Thái bắt đầu đổ bộ vào bang Shan. Suốt 9 tháng kế tiếp đó, các chiến cơ của RTAF gồm Vought V-93 Corsairs và Curtiss Hawk III thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ gần, trong khi oanh tạc cơ hạng nhẹ Ki-30 và oanh tạc cơ hạng trung Ki-21 hay oanh tạc cơ Martin B-10 chuyên thực hiện các nhiệm vụ tầm xa để không kích phe Quốc dân đảng tại các thành phố lớn ở Miến Điện.
Phi công RTAF càn quét đám quân của Tướng Tưởng Giới Thạch. Từ tháng 1/1942 đến tháng 12/1943, RTAF đã nâng cấp kho vũ khí của mình bằng các thiết bị mới. Là đồng minh duy nhất của Nhật Bản trong khu vực, Thái Lan đã nhận nhiều chiến cơ Ki-27b Nate đã được nâng cấp và 24 chiến cơ Nakajima Ki-43 “Oscar”. Tương tự như những chiếc Mitsubishi A6M Zero xét về diện mạo và hiệu suất, những chiếc Oscar khá nhẹ, dễ bay, cùng hiệu suất chiến đấu vượt trội. Tuy vậy Oscar lại thiếu lớp giáp và bình nhiên liệu hàn kín, đồng nghĩa nó rất dễ bắt lửa hoặc bị vỡ nếu bị hư hại nhẹ.
Khi Không - lục quân Mỹ tăng cường sức mạnh tại Võ đài Trung Quốc - Miến Điện - Ấn Độ (CBI) trong năm 1943 với việc bổ sung 2 nhóm oanh tạc cơ mới và 3 nhóm chiến cơ mới, Bangkok bị ngắm mục tiêu hàng đầu. Cuộc đánh bom đầu tiên tại thủ đô Thái Lan đã diễn ra vào tối ngày 19/12/1943, khi 27 chiếc oanh tạc cơ hạng nặng B-24 Liberator đã rải bom các bến tàu ở Bangkok.
Đêm 23/12/1943, 26 chiếc Liberator đã oanh tạc nhà ga đường sắt trung tâm Bangkok. Trong cuộc đột kích này, các oanh tạc cơ Mỹ phát hiện 2 máy bay địch trên không, song không có máy bay nào tấn công. Trong những nhiệm vụ đầu tiên, vì không có radar hay hệ thống cảnh báo sớm nên các chiến cơ RTAF không nhận ra địch đã ở trên đầu mình, tới lúc họ bay tới độ cao như ý thì các oanh tạc cơ địch đã rời đi. Từ các căn cứ ở Trung Quốc, Không lực 14 (đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Claire Chennault, thủ lĩnh huyền thoại của lực lượng Phi Hổ) đã hạ lệnh không kích các mục tiêu ở Tây Bắc Thái Lan, tập trung vào các cơ cấu trụ sở và trung tâm thông tin liên lạc quanh hai thành phố Chiang Mai và Lampang.
Ngày 31/12/1943, một đội bay gồm 25 chiếc B-24 đã oanh tạc các tuyến đường sắt ở Lampang. 3 ngày sau, 2 chiếc P-38 Lightning từ Phi đội chiến đấu 449 đã hộ tống 28 chiếc oanh tạc cơ B-24 trong nhiệm vụ đánh bom thứ hai ở Lampang. Lần này, do thiếu thông tin, các chiến cơ của RTAF đã bay lên nhưng không tấn công.
Suốt mùa xuân còn lại, những mục tiêu chính của oanh tạc cơ B-25 là nhắm vào những hệ thống cầu đường trọng yếu. Những hồ sơ lưu trữ của phía Thái Lan cho thấy chỉ có duy nhất một phi công RTAF thực hiện khai hỏa địch, chiến cơ của anh ta quá chậm khi bắt kịp oanh tạc cơ kẻ thù. Nhằm chống lại các cuộc không kích bởi oanh tạc cơ B-25, người Thái chuyển sang chiến đấu ban ngày, tuy vậy không lần nào thành công. Các cuộc tấn công chỉ diễn ra vào mùa Hè khi mưa nhiệt đới làm hạn chế các hoạt động của quân Đồng minh.
Nửa đầu năm 1944 có hai hoạt động quân sự lớn đã gián tiếp đưa Thái Lan vào tầm ngắm của các oanh tạc cơ chiến lược mới và tiên tiến nhất của Không lục quân Hoa Kỳ. Đầu tháng 3/1944, Tư lệnh tập đoàn quân số 15 (Nhật Bản), Trung tướng Mutaguchi đã phát động “Chiến dịch U-Go” xâm lược Ấn Độ. Người Nhật thực hiện khâu yểm trợ hậu cần ở Thái Lan khiến cuộc chiến của Mỹ và Đồng minh chống các mục tiêu Thái trở nên hết sức căng thẳng.
Thái Lan cũng trở thành nhân tố bất ngờ trong “Chiến dịch Matterhorn”. Kế hoạch chiến lược này đã được phê chuẩn tại các hội nghị ở Quebec và Cairo từ năm 1943 gồm các phi đội oanh tạc cơ hạng nặng Siêu pháo đài bay Boeing B-29 tầm xa mới ở Ấn Độ và Trung Quốc, họ sẽ thực hiện các cuộc đột kích chiến lược vào đất liền Nhật Bản. Chuẩn tướng Laverne G. Saunders đảm nhận chỉ huy Phi đội ném bom 58 mới được thành lập tại Kharagpur (Ấn Độ), ngay tại một căn cứ được xây dựng ban đầu dành cho máy bay B-29. Các oanh tạc cơ B-29 của Phi đội ném bom 58 được giao nhiệm vụ chiến đấu đầu tiên: cuộc đột kích vào ngày 5/6/1944 chống lại các bãi ga đường sắt ở Bangkok. Tổng cộng có 98 chiếc B-29 đã cất cánh trong một nhiệm vụ. Trong nhiệm vụ phá hủy B-29, 9 chiếc Oscar của RTAF đã bay lên nghênh chiến nhưng không thành công.
Hai phi công Thái, Nhật so sánh các ghi chú trên thân chiến cơ “Oscar”. RTAF đã sử dụng phù hiệu voi vào cuối năm 1942.
Tiếp tay cho Tình báo Mỹ
Trong bối cảnh các cuộc không chiến dần biến đổi thành phong trào kháng chiến ngầm kể từ những ngày đầu cuộc chiến, thì Phong trào Thái Tự do (FTM hay Seri Thai) đã đã nảy sinh ngay sau khi Thái Lan tuyên chiến Mỹ vào năm 1942. Ngài Đại sứ Thái Lan tại Washington, D.C., Seni Pramoj, khước từ bản tuyên chiến lên Ngoại trưởng Mỹ, Cordell Hull, mà thay vào đó đã đề xuất với ông Hull rằng Pramoj sẽ “tổ chức và duy trì một chính phủ gồm những người Thái ái quốc, yêu tự do trong khi chính phủ của tôi nằm trong tay người Nhật”. Vốn rất khôn ngoan, Washington nhận ngay Thái Lan là một nước bị chiếm đóng (thay vì nước hiếu chiến). Với sự hậu thuẫn của Mỹ, Đại sứ Seni Pramoj đã sáng lập FTM.
Bước chân vào OSS (tiền thân của CIA), vào ngày 12/3/1942, Đại sứ Pramoj đề xuất đưa một tốp sinh viên Thái Lan ở Mỹ hồi hương nhằm tiến hành những hoạt động phá hoại. Thuộc hạ của Pramoj đã hội kiến Trung tá Garland H. Williams (người của OSS) để sắp xếp cho các tình nguyện viên trẻ được đào tạo, trang bị và triển khai. Nhóm 13 người Thái đầu tiên được OSS đào tạo vào ngày 12/6/1942. Nhiều thanh niên Thái đã được đào tạo trong các trại của OSS ở hai tiểu bang Maryland và Virginia trong năm 1942, rồi lần lượt nhảy dù xuống Thái Lan trong 2 năm 1944 và 1945 để hoạt động gián điệp, thành lập các mạng lưới du kích, rồi sau đó chuyển tình báo giá trị về Mỹ. Họ cũng giúp giải cứu các phi công Đồng minh bị RTAF bắt giữ, đáng chú ý là phi công lái chiếc P-40 của lực lượng Phi Hổ, Trung úy William D. McGarry, người đã có 8 chiến công bắn rơi máy bay địch. Vụ trốn thoát của phi công McGarry đã giúp củng cố liên minh của Mỹ với kẻ thù hai mặt bất đắc dĩ RTAF.
Bắt đầu từ giữa năm 1944 khi gián điệp OSS bắt đầu nhảy dù xuống Thái Lan, RTAF đã dùng máy bay để đón những người này. RTAF bắt đầu chở gián điệp Mỹ vào thẳng sân bay Don Muang (của Bangkok) cũng là nơi người Nhật hoạt động. Trong 2 năm 1944, 1945, các máy bay của RTAF thoải mái phân phối hậu cần vật tư của quân Đồng minh trên khắp Thái Lan ngay dưới mũi bọn Nhật. Chưa hết, máy bay của RTAF còn cung cấp thông tin thời tiết, hành binh thời gian thực của quân Nhật, và những mục tiêu tiềm năng cho quân Mỹ thực hiện tấn công/ đột kích. Trong một số trường hợp nhằm đảm bảo mục tiêu chính xác, máy bay RTAF còn bay cùng oanh tạc cơ Mỹ khi tấn công các mục tiêu trên đất Thái.
Sau khi cung cấp tình báo về sức mạnh không quân Nhật Bản cho người Mỹ, RTAF buộc phải chứng kiến lính tráng và khí tài của mình cùng với quân Nhật bị Mỹ tấn công. Về sau nhờ những cơn mưa nhiệt đới trong tháng 5/1945 mà những trận oanh tạc bằng bom Mỹ mới tạm bớt. Cho đến khi kết thúc chiến tranh, RTAF vẫn giành phần lớn đội bay của mình để hỗ trợ Phong trào Thái Tự do (FTM). Sự đầu hàng của quân Nhật đã chấm dứt cuộc sống hai mặt của RTAF.
Phan Bình (Tổng hợp)
Nguồn ANTG : https://antg.cand.com.vn/ho-so-mat/tinh-bao-khong-luc-hoang-gia-thai-lan-trong-the-chien-ii-i760811/