Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn với lãnh đạo các Đảng bộ trực thuộc Đảng ủy Quốc hội. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Nhân dịp này, Tiến sỹ Đặng Xuân Phương, Phó Bí thư Đảng ủy Quốc hội có bài viết với chủ đề: "Tính Đảng trong xây dựng pháp luật và yêu cầu đặt ra đối với Đảng bộ Quốc hội trong tình hình mới". Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết của Phó Bí thư Đảng ủy Quốc hội Đặng Xuân Phương:
"Phát huy cao độ tính Đảng trong xây dựng pháp luật là một nhiệm vụ, giải pháp quan trọng hàng đầu để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ quá trình phát triển của đất nước trong tình hình mới. Tại Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 70-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo; Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, Tổng Bí thư Tô Lâm đề nghị toàn hệ thống chính trị quán triệt và thực hiện nghiêm một số nguyên tắc trong quá trình triển khai; trong đó nhất quán về chính trị - pháp lý - dữ liệu - phân bổ nguồn lực - truyền thông. Việc phát huy cao độ tính Đảng trong xây dựng pháp luật cũng là để bảo đảm nhất quán giữa khuôn khổ pháp luật với chủ trương, đường lối của Đảng; không để tình trạng pháp luật thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng mà mỗi nơi hiểu một kiểu.
Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn trao Quyết định thành lập Đảng bộ các cơ quan tham mưu, giúp việc Đảng ủy Quốc hội. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN
Từ thực tiễn hoạt động của Đảng bộ Quốc hội kể từ khi thành lập đến nay, có thể xác định những vấn đề, nội dung trong các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết (quy phạm pháp luật) thuộc thẩm quyền của Quốc hội gắn với nội hàm tính Đảng mà Đảng ủy Quốc hội và các cơ quan tham mưu, giúp việc cần tập trung xem xét, cho ý kiến đánh giá một cách đồng thời, đồng bộ với việc thực hiện quy trình thẩm tra thuộc chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng Dân tộc và các cơ quan của Quốc hội, đó là:
- Đánh giá sự phù hợp về nội dung văn bản pháp luật, hình thức văn bản pháp luật được ban hành với nội dung các nguyên tắc cơ bản, chủ trương đường lối của Đảng thể hiện trong Điều lệ, Cương lĩnh của Đảng và Nghị quyết, Quy định, Quy chế, Kết luận, Hướng dẫn của cấp ủy, tổ chức đảng cấp trên hoặc của cấp mình;
- Đánh giá sự phù hợp về phạm vi điều chỉnh (đối tượng điều chỉnh, nội dung điều chỉnh, không gian và thời gian áp dụng) của văn bản pháp luật với yêu cầu thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng;
- Đánh giá mức độ yêu cầu thể chế hóa (xác định rõ các vấn đề mang tính cấp bách, tính kịp thời, tính thử nghiệm, tính đột phá hoặc tính căn bản, toàn diện) liên quan đến những chủ trương, đường lối mới nhất hoặc lâu dài của Đảng xuất phát từ tình hình thực tiễn khi tiến hành xây dựng pháp luật; cân nhắc các mặt ưu, nhược điểm so với việc tiếp tục duy trì các quy định hiện hành để bảo đảm tính thống nhất, tính ổn định của hệ thống pháp luật (việc ban hành hoặc chưa ban hành văn bản pháp luật sẽ có ảnh hưởng ra sao về cơ hội, rủi ro, thách thức đối với việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng);
- Đánh giá sự bảo đảm phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy, tổ chức đảng (trong quy trình soạn thảo) của cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra (hồ sơ dự thảo văn bản pháp luật đã lấy ý kiến cấp ủy, tổ chức Đảng hoặc lấy ý kiến tập thể lãnh đạo ở cơ quan, đơn vị trình, thẩm tra hay chưa; các ý kiến tham gia thêm hoặc ý kiến thiểu số bảo lưu trong quá trình tham gia ý kiến thẩm định, thẩm tra văn bản pháp luật);
- Đánh giá tính đầy đủ, chính xác của việc xác định căn cứ chính trị làm cơ sở cho việc xây dựng, ban hành văn bản pháp luật;
- Đánh giá việc thực hiện các yêu cầu về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong nội dung hồ sơ văn bản pháp luật được xây dựng;
- Đánh giá việc thực hiện các biện pháp cần thiết riêng (nếu có) của cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra để bảo đảm kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật;
- Đánh giá tiến độ và tính thời sự của việc ban hành văn bản pháp luật so với yêu cầu đặt ra (nếu có) trong các chương trình hành động, kế hoạch thực hiện nghị quyết của cấp ủy Đảng.
Nhằm bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Đảng bộ Quốc hội mà trực tiếp là Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội đáp ứng các yêu cầu của tình hình mới, trong đó nhấn mạnh đến 2 yêu cầu then chốt, đó là: thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, kịp thời chủ trương đường lối của Đảng trong tình hình mới và bảo đảm phát huy được yêu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước đối với hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, cần nhận thức đúng về phương thức lãnh đạo của Đảng khi thực hiện nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” trước yêu cầu của tình hình mới theo hướng tránh xu hướng tuyệt đối hóa một cách máy móc về sự tách bạch rạch ròi giữa công tác lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý nhà nước trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; bảo đảm vừa phân định rõ, vừa kết hợp một cách hài hòa “đúng vai, thuộc bài” giữa vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong thực hiện quản lý; tránh tình trạng rơi vào một trong hai trạng thái: hoặc là cấp ủy, tổ chức đảng bao biện, làm thay vai trò của cơ quan nhà nước, hoặc là thoát ly tính đảng, tức là thực hiện chức năng quản lý không trên cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng.
Thứ hai, cùng với đổi mới mạnh mẽ khâu ban hành chương trình hành động, kế hoạch thực hiện và quán triệt triển khai thực hiện trong hoạt động của Quốc hội các chủ trương, nghị quyết của Đảng, cần nâng cao tính chủ động, tích cực của Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội trong việc tham mưu, đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền của Đảng về chương trình, nhiệm vụ lập pháp của Quốc hội, bảo đảm song hành phối hợp trong quy trình hoạch định chính sách của Chính phủ. Không phụ thuộc vào những nội dung do Chính phủ xác định trong dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và các nghị quyết có tính quy phạm pháp luật của Chính phủ, Đảng ủy Quốc hội cần chủ động lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy đảng ở Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội tổ chức nghiên cứu, đánh giá trước các yêu cầu về bảo đảm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng cũng như sự phù hợp trong sáng kiến pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân so với yêu cầu thể chế hóa. Trường hợp cần thiết giao cấp ủy cơ quan có thẩm quyền thẩm tra lãnh đạo, chỉ đạo việc tiến hành giám sát, khảo sát nhằm nắm thật chắc những vấn đề cơ chế, chính sách cần thể chế hóa, để không xảy ra tình trạng “bị động”, bị “ép” về tiến độ thẩm tra hồ sơ dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Thứ ba, tiếp tục nâng cao nhận thức, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của toàn Đảng bộ nhằm tìm tòi, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật cũng như trong giám sát thực hiện pháp luật phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng; vận dụng sáng tạo phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng pháp luật, bảo đảm pháp luật được ban hành phải phát huy cao hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn thực hiện pháp luật, coi đây là thước đo đánh giá năng lực, chất lượng lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong toàn Đảng bộ Quốc hội; tăng cường trách nhiệm của các đồng chí Thường trực Đảng ủy, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội đối với công tác kiểm tra, giám sát nhằm kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực một cách có hiệu quả đối với quan hệ hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của các Ban đảng ở trung ương đối với Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội nhằm thúc đẩy thể chế hóa kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng.
Thứ năm, quan tâm xây dựng, củng cố các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng ủy Quốc hội tinh gọn, đủ năng lực hoàn thành các nhiệm vụ hướng dẫn, thẩm tra nhằm bảo đảm tính đảng đối với công tác xây dựng, ban hành và giải thích kịp thời nội dung văn bản quy phạm pháp luật theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng. Việc thành lập các cơ quan tham mưu, giúp việc Đảng ủy Quốc hội (hiện bao gồm: Văn phòng, Ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo và Dân vận, Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy) đã đặt ra yêu cầu cao hơn về trách nhiệm bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng ủy Quốc hội trong hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Đối với công tác xây dựng pháp luật, các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng ủy Quốc hội không thể đứng ngoài công tác thẩm tra về bảo đảm yêu cầu tính đảng đối với các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết mang tính quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Do đó, đồng thời với yêu cầu làm rõ nội hàm tính đảng như đã nêu trên, cần sớm xác lập một cơ chế tổ chức thẩm tra, tham gia thẩm tra trong quy trình giải quyết công việc của cấp ủy Đảng, “đặt bên cạnh” và có tính chất giám sát tức thời về yêu cầu phát huy tính Đảng trong quá trình các cơ quan của Quốc hội thực hiện quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, điều này cũng đòi phải nâng cao toàn diện năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác xây dựng Đảng ở Quốc hội ngang tầm nhiệm vụ.
Thứ sáu, cần phát huy thật tốt vai trò của các đồng chí Thường trực Đảng ủy, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội tích cực tham gia thảo luận, định hướng quan điểm xây dựng pháp luật của Đảng trong các kỳ họp Quốc hội.
Với việc ra đời mô hình Đảng bộ Quốc hội, dưới sự lãnh đạo chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng ủy Quốc hội, chỉ trong một thời gian ngắn từ tháng 2 đến tháng 9 năm 2025, Quốc hội khóa XV đã đạt được những kết quả to lớn chưa từng thấy trước đó về khối lượng, hiệu quả xây dựng pháp luật trong một nhiệm kỳ (và nếu so sánh suốt thời gian gần 80 năm lịch sử Quốc hội thì kết quả công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội từ khi ra Đảng bộ Quốc hội đi vào hoạt động, càng cho thấy đây là thành quả hết sức nổi bật). Chỉ riêng trong kỳ họp thứ 9 (từ tháng 5 đến tháng 6 năm 2025), Đảng ủy Quốc hội đã lãnh đạo Quốc hội khẩn trương, hoàn thành vượt tất cả các mốc thời gian đã đề ra trước đó (không chỉ vượt tiến độ về sửa đổi Hiến pháp năm 2013 mà còn là con số 34 luật và 13 nghị quyết quy phạm pháp luật đã được Quốc hội thông qua, chưa kể việc Quốc hội đã cho ý kiến đối với nhiều dự án luật và thông qua hàng chục nghị quyết khác).
Để phát huy cao độ tính Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu thể chế hóa kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng ta trong tình hình mới, chặng đường phía trước sẽ còn rất nhiều công việc quan trọng mà Đảng bộ Quốc hội phải tập trung giải quyết từng bước. Nhưng những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ Quốc hội lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030, trong đó có nhiệm vụ, giải pháp “đột phá” về xây dựng pháp luật, đã cho thấy được sự tin tưởng, quyết tâm của cán bộ, đảng viên thuộc Đảng bộ vào sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta đối với việc hoàn thành thắng lợi các mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc phát triển đất nước trong kỷ nguyên phát triển thịnh vượng, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam".
TTXVN/Báo Tin tức và Dân tộc