Tòa hủy án vì xử lý vật chứng không đúng, áp dụng sai khoản của điều luật

Tòa hủy án vì xử lý vật chứng không đúng, áp dụng sai khoản của điều luật
11 giờ trướcBài gốc
Mới đây, VKSND Cấp cao tại TP.HCM đã ban hành thông báo rút kinh nghiệm vụ án Nguyễn Văn Minh Tiền về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.
Hình minh họa.
Nội dung vụ án
Ngày 7-7-2021, Tiền ký hợp đồng thế chấp ô tô với ngân hàng để vay 770 triệu đồng, phía ngân hàng giữ bản gốc giấy đăng ký xe và giao xe cho bị cáo Tiền quản lý.
Sau đó, Tiền đặt mua một giấy chứng nhận đăng ký xe giả với giá 2,2 triệu đồng, Tiền đem xe và giấy tờ xe giả cầm cho anh T 300 triệu đồng.
Tiếp đó, Tiền bán chiếc ô tô này cho bà H nhận số tiền 240 triệu đồng. Như vậy, thông qua việc cầm xe và mua bán xe, bị cáo đã nhận tiền của các bị hại tổng cộng là 513 triệu đồng, bị cáo sử dụng để trả nợ và tiêu xài cá nhân hết số tiền này.
Ngày 13-2-2023, anh T, bà H mang giấy tờ công chứng hợp đồng bán xe đến Phòng CSGT Công an tỉnh Vĩnh Long để rút hồ sơ gốc thì được thông báo cho biết là giấy tờ xe giả nên làm đơn tố giác hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Tiền.
Bản kết luận giám định kết luận giấy chứng nhận đăng ký ô tô là giả.
Xử sơ thẩm tháng 6-2024, TAND tỉnh V xử phạt bị cáo Tiền 12 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và 1 năm tù về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức; buộc bị cáo Tiền phải chấp hành hình phạt chung cho hai tội là 13 năm tù.
Ngày 2-7-2024, Viện trưởng VKSND Cấp cao tại TP.HCM kháng nghị theo hướng hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.
Xử phúc thẩm, TAND Cấp cao tại TP.HCM chấp nhận kháng nghị của VKSND Cấp cao tại TP.HCM, hủy bản án sơ thẩm chuyển hồ sơ vụ án cho VKSND tỉnh V để điều tra.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Theo VKSND Cấp cao tại TP.HCM, cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đánh giá không đúng tính chất, mức độ nguy hiểm đối với tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức mà bị cáo đã thực hiện.
Quá trình điều tra xác định bị cáo Tiền đã sử dụng giấy tờ, tài liệu giả để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của những bị hại, với tổng số tiền chiếm đoạt là 513 đồng đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo đã cấu thành các tội:
(1) Lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tình tiết định khung hình phạt: Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500 triệu đồng trở lên, quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS.
(2) Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức với tình tiết định khung hình phạt: Sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả khác thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, quy định tại điểm b khoản 3 Điều 341 BLHS.
Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS là có căn cứ. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức theo quy định khoản 1 Điều 341 BLHS là không chính xác, là sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật.
Cấp sơ thẩm còn xử lý vật chứng không đúng theo quy định của pháp luật. Cụ thể, đối với ô tô Tiền đã thế chấp tại ngân hàng để vay số tiền 770 triệu đồng. Cho đến nay Tiền chưa tất toán hợp đồng này.
Thời điểm bị cáo thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của những người bị hại, chiếc ô tô nêu trên đã thế chấp cho ngân hàng thông qua giao dịch dân sự hợp pháp theo quy định của BLDS.
Tuy nhiên, bản án sơ thẩm tuyên giao cho Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh V xử lý theo thẩm quyền là không chính xác, không đúng quy định của pháp luật về xử lý vật chứng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của ngân hàng.
Ô tô phải được giao cho ngân hàng để xử lý tài sản trong việc thu hồi nợ đúng theo quy định của pháp luật, theo Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS.
Thông qua vụ án này, VKSND Cấp cao tại TP.HCM thông báo đến các VKS địa phương trong khu vực nghiên cứu rút kinh nghiệm chung, nhằm nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
YẾN CHÂU
Nguồn PLO : https://plo.vn/video/toa-huy-an-vi-xu-ly-vat-chung-khong-dung-ap-dung-sai-khoan-cua-dieu-luat-post855334.html