Ông mất đi để lại niềm tiếc thương vô hạn đối với Đảng bộ và Nhân dân tỉnh Bắc Ninh hôm nay. Riêng đối với tôi đã mất đi một người lãnh đạo, một người thầy kính trọng trong công tác, một người chú gần gũi kính yêu. Tôi học được ở ông nhiều điều quý giá trong cuộc sống.
Đồng chí Ngô Đình Loan (hàng đầu, thứ 5 từ trái qua phải) tại buổi gặp mặt do Tỉnh ủy Bắc Ninh tổ chức. Ảnh tư liệu
Đầu năm 1997, tỉnh Bắc Ninh được tái lập khi chia tách tỉnh Hà Bắc thành hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang theo Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX. Bộ Chính trị giao ông làm Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh. Tôi được ông chọn làm Thư ký riêng và sau đó bổ nhiệm làm Phó Chánh Văn phòng Tỉnh ủy. Những ngày đầu tái lập tỉnh công việc nhiều, việc nào cũng cần phải khẩn trương để bộ máy hành chính của tỉnh nhanh chóng đi vào hoạt động.
Tôi giúp ông soạn thảo các văn bản để triển khai trong các hội nghị, cuộc họp. Mỗi bản thảo ông cẩn thận đọc và sửa rất kỹ. Khi công tác tổ chức tạm thời ổn định, ông bắt đầu đi thăm cơ sở, nơi làm việc của các sở, ban, ngành; thăm các huyện, thị xã, cơ sở sản xuất. Những ngày giá lạnh, lo mạ xuân bị chết rét, ông đã đến từng huyện cùng lãnh đạo huyện và Phòng Nông nghiệp trực tiếp đi thăm đồng. Mỗi chuyến đi, ông tháo giầy lội xuống từng ruộng mạ, ông vui khi thấy mạ không chết vì nông dân biết phủ kín ni lông.
Tôi nói với ông, Bí thư đi thăm đồng nên cho phóng viên Báo, Đài của tỉnh đi để tuyên truyền, ông bảo chưa cần thiết, mình đi để biết, để chỉ đạo trực tiếp, chứ có phải tuyên truyền cho việc Bí thư đi thăm đồng đâu. Trong nhiều việc quan trọng phải chỉ đạo để phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, ông chú trọng quan tâm xây dựng giao thông nông thôn. Ông nói: “Giao thông phát triển đến đâu thì kinh tế sẽ phát triển đến đó”.
Đặc biệt, ông quyết tâm chỉ đạo xây dựng cầu Hồ để thông thương hai bờ Bắc - Nam sông Đuống - niềm mong ước bao đời nay của Nhân dân Bắc Ninh. Tôi là người được tháp tùng ông trong suốt quá trình từ lúc xin chủ trương cho đến khi cầu Hồ hoàn thành. Ông là người nhiệt tình, tâm huyết trong mọi công việc, kiên quyết thực hiện và thực hiện bằng được những việc khó nhưng có lợi cho dân.
Trong cuộc sống, ông rất giản dị, giản dị từ cách ăn mặc đến tác phong sinh hoạt. Có lẽ ông không biết đến quán phở, không biết đến nhà hàng sang trọng vì hãn hữu lắm mới ăn cơm ngang đường. Nhiều hôm làm việc ở Hà Nội tới khuya, tôi mời ông đi ăn cho bảo đảm sức khỏe nhưng ông bảo, thôi về nhà ăn, muộn một tý không sao. Đặc biệt, ông không bao giờ hút thuốc, rất hạn chế uống bia, rượu. Ông là người nhẹ nhàng trong lời nói nhưng kiên quyết trong công việc. Ở cạnh ông tôi thấy ông chưa bao giờ cáu gắt, chưa bao giờ to tiếng.
Ông sống chân thành và tình cảm với mọi người và người thân trong gia đình. Hằng tuần, vào ngày nghỉ ông đều dành thời gian về quê thăm mẹ (cụ thân sinh ra ông) lúc đó đã ngoài 90 tuổi. Cụ tuổi cao nhưng minh mẫn, hai mẹ con nói chuyện rất tha thiết, cụ vẫn coi ông như hồi còn trẻ. Tôi nhớ, chuẩn bị đón Tết năm 1998, tối 29 Tết, hai thày trò vẫn đi chúc Tết gia đình người có công và các hộ khó khăn. Ông bảo tôi: “Chú cháu mình cứ mải đi chúc Tết quên cả chuẩn bị Tết nhà mình”. Sáng sớm hôm sau (30 Tết), ông đến thăm, chúc Tết gia đình tôi (lúc đó đang ở nhờ gian nhà một người bạn), tôi vô cùng cảm động vì bao nhiêu việc lớn ông phải lo, tôi chưa đến chúc Tết ông thì ông lại đến chúc Tết gia đình tôi.
Đồng chí Ngô Đình Loan chụp ảnh với cán bộ, nhân viên Báo Bắc Ninh. Ảnh tư liệu
Đối với tôi, ông luôn quan tâm rèn giũa, tạo mọi điều kiện cho tôi công tác. Ông bảo tôi học thêm về kinh tế, tạo điều kiện cho tôi học văn bằng 2 Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, ông cũng tham gia theo học để hiểu thêm về kinh tế. Thấy tôi phù hợp với nghề báo, khi đồng chí Nguyễn Thái San, Tổng Biên tập Báo Bắc Ninh đến tuổi nghỉ hưu, ông bàn với Thường trực Tỉnh ủy điều chuyển tôi sang cơ quan Báo làm Phó Tổng Biên tập, tạo nguồn kế cận lãnh đạo cho Báo. Khi đồng chí Thái San nghỉ hưu, tôi được giao quyền Tổng Biên tập, rồi Tổng Biên tập Báo Bắc Ninh (đầu năm 2000), ông thường xuyên sang cơ quan động viên, giúp đỡ tôi.
Mỗi lần ông đi họp Trung ương hoặc mỗi kỳ họp Quốc hội về, tôi lại mời ông sang cơ quan Báo, thông tin những nội dung kỳ họp cho những người làm báo của tỉnh để vừa nắm trước nội dung, vừa làm nhiệm vụ tuyên truyền. Khi ông nghỉ hưu vẫn thường xuyên ra cơ quan báo, trò chuyện với các phóng viên và tham gia viết bài cho Báo Bắc Ninh, nhất là những vấn đề cán bộ và Nhân dân quan tâm.
Khi tôi được nghỉ hưu, có thời gian nên thường xuyên gần gũi ông, thỉnh thoảng hai thày trò lại đi thăm các bác, các chú, các đồng chí lãnh đạo cùng thời công tác với ông và trước ông như bác Nguyễn Thanh Quất, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Bắc, bác Lê Xuân Sơ, nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Hà Bắc; các đồng chí lãnh đạo các huyện của tỉnh Hà Bắc trước kia. Gặp nhau “tay bắt mặt mừng”, ôn lại những chuyện ngày xưa, ai cũng quý trọng ông, tôi ngồi nghe thấy vui lây.
Hai năm gần đây sức khỏe của ông giảm hẳn, tháng nào cũng đi nằm bệnh viện một hai lần, ăn uống kém nhưng vẫn rất minh mẫn, cái bệnh ho vì phổi có vấn đề đã làm khổ ông. Mỗi lần ra thăm, nâng ông ngồi dậy, tôi vỗ nhẹ vào lưng cho ông cảm thấy dễ chịu. Cách đây mấy tháng, ông điện thoại bảo tôi ra nhà gặp có việc. Ông đưa cho tôi mấy trang viết tận dụng phía sau những tờ lịch mới xé bảo tôi về đánh máy và in cho ông. Đó là những trang viết rất chi tiết về quá trình học tập và công tác của ông từ nhỏ cho đến lúc nghỉ hưu, những phần thưởng Huân, Huy chương, Huy hiệu Đảng… Nay ngẫm lại tôi mới nhận ra: Ông ngầm bảo tôi đây là tài liệu dùng cho lời Điếu văn khi ông nằm xuống. Tôi đã chuyển cho anh Ngô Tân Phượng, con trai trưởng của ông sau vài giờ ông ngừng thở.
Xin được cảm ơn ông luôn tin tưởng tôi từ lúc giúp việc ông cho tới khi ông nằm xuống gần 30 năm nay (từ 1997 đến nay). Cảm ơn ông - người lãnh đạo, người thày kính yêu, người chú trong đời thường đã cho tôi nhiều điều quý giá trong cuộc sống.
T.S Nguyễn Bá Sinh