Tội làm giả thời xưa

Tội làm giả thời xưa
6 giờ trướcBài gốc
Thử tìm hiểu trong lịch sử nước ta, việc ngăn chặn và xử hàng giả được tiến hành thế nào.
Sử sách cho biết, thời phong kiến, làm giả bất cứ vật gì liên quan đến nhà vua đều bị tội chết. Tuy nhiên, sử cũng thường chỉ ghi những việc lớn, nên chỉ có thể thấy có những vụ làm giả lớn, từ làm giả ấn tín, chiếu chỉ, cho đến các đồ vật liên quan đến quân đội và an ninh quốc gia mà thôi. Đọc trong chính sử, không thấy nhắc đến các vụ việc làm giả các loại hàng hóa tiêu dùng. Có thể do luật pháp nghiêm, có thể do người dân không dám nghĩ đến sản xuất hàng giả, các nguyên nhân này còn cần nghiên cứu thêm.
Trong Quốc triều Hình luật (Luật Hồng Đức), chương Trá ngụy có 38 điều về các tội làm đồ giả, giả mạo.
Xét trong bộ hình luật xưa nhất của nước ta còn lại đến ngày nay, là bộ “Quốc triều Hình luật”, hay còn gọi là “Luật Hồng Đức”, ban hành dưới thời Vua Lê Thánh Tông, trong tổng cộng có 722 điều (sau khi bổ sung), thì có hẳn một chương (Chương 10 - Trá ngụy) với 38 điều liên quan đến các tội làm giả và giả mạo. Trong chương này, không có điều luật nào quy định về tội làm giả các mặt hàng tiêu dùng.
Các điều luật đầu tiên trong chương này đều là các tội liên quan đến nhà vua. Điều đầu tiên (Điều 515) nói về việc giả ấn của vua và các nhân vật hoàng thất (thái thượng hoàng, hoàng hậu, hoàng thái tử, hoàng thái phi) đều bị tội xử giảo. Điều tiếp theo là tội giả ấn các sảnh, viện, của các quan, tướng trong triều, đều bị đày đi châu xa, giả các ấn khác (ấn các kho tàng, ấn các lộ) thì xử tội lưu đi châu gần.
Điều 517 quy định, dùng ấn giả đóng vào sổ sách, văn bằng, cho người khác mượn để lấy tiền hay đồ vật thì khép vào tội làm giả, đúc giả và bắt bồi thường gấp đôi số tang vật đã lấy của người để sung công. Vô tình không biết thì không phải tội.
Theo Điều 518, tội làm giả môn phù cửa điện, cửa hoàng thành, cửa kinh thành, binh phù của các tướng, dịch phù của nha trạm, cờ tiết của sứ giả, đều xử chém. Còn điều 519 quy định: Làm giả chiếu, chế của vua thì xử chém.
Theo Điều 521, tội làm giả hay thêm bớt vào công văn thì xem định trốn tránh việc hay tội gì, mà xử nặng hơn tội ấy 2 bậc, chưa thi hành thì được giảm 1 bậc.
Tội làm giả các vật dụng thông dụng quy định trong Luật Hồng Đức bao gồm: Đúc tiền giả, làm vàng bạc giả và làm giả bia, mốc giới địa chính. Theo Điều 522, tội đúc trộm tiền đồng thì không kể là thủ phạm hay tòng phạm đều xử tội chém; chủ chứa cùng tội, láng giềng biết mà không báo thì xử nhẹ hơn 2 bậc; quan địa phương vô tình không biết thì xử tội biếm hay phạt, xã quan thì bị tội đồ; thưởng cho người tố giác hay bắt được 2 tư.
Còn tội làm bạc giả được quy định ở Điều 523: “Những kẻ làm vàng bạc giả và những đồ dùng bằng vàng bạc giả đem bán thì xử tội đồ; những vật ấy phải sung công”.
Người có tội thời xưa bị “nọc” ra đánh giữa công đường (Ảnh tư liệu).
Về giả mạo trong địa chính, Điều 533 và 534 quy định: Làm giả bia, mốc giới đất; hay làm giả chúc thư văn tự giả mạo thì đều bị tội đồ làm tượng phường binh (binh lính phục dịch ở chuồng voi của nhà nước). Làm giả giấy tờ công thì xử tội như ăn trộm, tội nhẹ được giảm bớt. Sau các điều này, có đến 29 điều nữa về các tội giả mạo khác.
Luật cấm tiền giả được nhắc đến trong bộ sử “Đại Việt sử ký toàn thư”, vào cuối thời Trần, đời Vua Trần Thuận Tông, năm Quang Thái thứ 9 (1396). Khi đó, theo lệnh Hồ Quý Ly, triều đình bắt đầu phát hành tiền giấy, gọi là “Thông bảo hội sao”, sau khi in tiền giấy xong, ra lệnh cho người đến đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2 tiền giấy. Triều đình ra lệnh: “Kẻ làm tiền giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản tịch thu”. Sau đó, cấm chỉ dân gian không được dùng tiền đồng, bao nhiêu tiền đồng đều nộp vào quan, nếu như người nào tàng trữ riêng hoặc tiêu dùng riêng cũng phải tội như người làm giả tiền giấy.
Tuy nhiên, đến năm 1399, đời Vua Trần Thiếu Đế, ở vùng trung du phía Tây kinh thành Thăng Long vẫn có tên cướp là Nguyễn Nhữ Cái trốn vào núi Thiết Sơn làm giả tiền giấy tiêu dùng. Lúc đó triều Trần rối ren, Vua Trần Thuận Tông bị giết, tướng Trần Khát Chân bị Hồ Quý Ly chém, nên Nhữ Cái mới chiêu dụ dân lành được hơn vạn người, hoạt động ở các xứ Lập Thạch, sông Đáy, Lịch Sơn (sau thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang) sông Đà, Tản Viên, cướp bóc bừa bãi, các châu huyện không sao chống được.
Thời Lê sơ, Vua Lê Thánh Tông rất coi trọng sự chính quy của quân đội, đã nhiều lần ban bố các mệnh lệnh quy chuẩn về áo, nón của binh lính. Mệnh lệnh cấm làm hàng giả duy nhất được nhà vua ban bố là vào ngay đầu năm Hồng Đức năm thứ 1 (1470, có lẽ trước khi Bộ luật Hồng Đức được ban bố), đó là lệnh cấm làm giả nón da, vì đây là loại trang bị riêng của quân đội.
Tuy nhiên, sử sách cho biết, cuối thời Lê sơ, vị “vua lợn” Lê Tương Dực đã cả gan làm một việc “động trời” trong quan hệ bang giao, với nhà Minh ở Trung Quốc mà có lẽ chưa vị vua nào của Việt Nam dám làm, đó là... làm ấn giả. Sử nước ta chép rằng, Vua Lê Tương Dực do làm mất ấn quốc bảo mà nhà Minh ban cho, không có gì để khớp với phù khế của nhà Minh. Nhân vua biết viên quan Kim quang môn đãi chiếu tên là Nguyễn Huệ biết làm ấn quốc bảo, nên đã sai khắc ấn mới để khớp với phù khế của nhà Minh, quả nhiên khớp với ấn của nhà Minh đã ban cho.
Đến năm Hồng Thuận thứ 5 (1513), khi sứ nhà Minh là bọn Huy Tăng, Nhược Thủy sang phong cho vua làm An Nam Quốc vương thì Nguyễn Huệ đã về nghỉ vì tuổi già. Vua nghĩ đến công làm ấn giả của ông, lại gọi ra để dùng, thăng ông làm Lễ Bộ Tả thị lang hành Kim quang môn đãi chiếu, tri Thượng bảo giám các cục.
Còn khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi của nhà Lê, về sau sử nhà Lê ghi rằng ông mắc những tội ác to lớn như “Ngầm kết bè đảng, trong ngoài hiệp mưu, lòng người quy phụ, rồi làm việc cướp ngôi, giết vua, làm giả tờ chiếu nhường ngôi mà lên ngôi thực”. Tuy nhiên, đó cũng là lời phê phán của đời sau, chứ lúc đương thời, không ai dám nghĩ một vị vua lên ngôi lại dùng chiếu chỉ giả.
Đến đời Vua Lê Thế Tông, khi mới trở về chiếm lại kinh thành Thăng Long từ tay nhà Mạc, năm 1598, triều đình ban bố một mệnh lệnh riêng cho huyện Quảng Đức (một trong 2 huyện trực thuộc phủ Phụng Thiên, kinh thành Thăng Long) mở cục làm giấy, làm loại giấy khổ to, kiểu mới nộp quan, không được bán riêng. Theo “Toàn thư” nguyên nhân là: “Bấy giờ, người ta hay làm giả lệnh thị, cho nên có việc cấm này để phòng kẻ gian (dùng giấy này để làm giả công văn). Lại hạ lệnh cho thừa ty và phủ huyện các xứ nếu thấy người của quan trên sai xuống có mang thiếp thị thì phải xét thực là giấy kiểu mới mới được y lệ thừa hành, nếu không phải thì bắt nộp trị tội”.
Ở Đàng Trong, sử sách triều Nguyễn cũng không ghi nhận các mệnh lệnh, pháp luật liên quan đến việc làm giả hàng hóa. Sử sách chủ yếu ghi lại nguy cơ làm giả các vật làm tin khi lưu thông đường thủy, như ấn thông hành, bài thuyền.
Bộ chính sử triều Nguyễn “Đại Nam thực lục” cho biết, tháng Giêng năm 1795, ở Gia Định, chúa Nguyễn Ánh ban ấn thông hành ở nước Chân Lạp, khắc 4 chữ triện “Ngự tứ thông hành”. Nguyên do ấn của nước Chân Lạp chạm khắc hình người, thật hay giả khó phân biệt được, chúa sợ kẻ buôn gian có làm giả mạo nên cho ấn này.
Đến tháng 7 năm Gia Long thứ 6 (1807), triều Nguyễn định lại điều lệ thuyền vận tải, trong đó cấp cho mỗi thuyền một số lượng “bài thuyền”, đi mỗi chuyến thì thu lại, mỗi năm cứ đến tháng 10 phải kê khai đệ trình; nếu còn ít thì cho lãnh thêm để phòng cấp phát. Lệnh ghi: “Kẻ nào dám làm bài thuyền giả để đi buôn hay cho người khác thuê mượn một khi bị tố cáo bắt giải thì kẻ làm giả và kẻ thuê mượn đều bị tội chết, thuyền và hàng hóa thì nửa sung vào nhà nước, nửa thưởng cho người tố cáo bắt giải”.
Một số vụ làm giả ghi nhận thời Vua Gia Long đều liên quan đến ấn tín. Tháng 12/1807, có vụ người ở Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) là Nguyễn Thị Trúc tự xưng là công chúa nhà Lê, “làm giả ấn tín mưu lãnh tiền kho Bắc Thành, việc phát giác, đem giết”. Tiếp đến là vụ “người Sơn Vi trấn Sơn Tây là Ma Văn Tư cùng với người Phú Yên là Nguyễn Bảo làm giả ấn tín, tự xưng là quan đi bắt giặc, lẻn tới mỏ đồng ở châu Mai Sơn, trấn Hưng Hóa giết cướp hộ khai mỏ; quan quân đều bắt được, đem giết”.
Bộ hình luật triều Nguyễn, “Hoàng Việt luật lệ”, ban hành thời Vua Gia Long nên cũng gọi là “Luật Gia Long”, chỉ có 389 điều, ít điều luật hơn so với Luật Hồng Đức. Luật này cũng có hẳn một phần (Trá ngụy) dành quy định các tội làm giả, giả mạo, nhưng chỉ gói gọn trong 7 điều, trong đó các điều đầu tiên tương tự như Luật Hồng Đức, gồm các tội làm giả chiếu, lệnh vua, ngụy truyền chiến vua, làm giả ấn tín, sách luật đương thời và các tội về "trá xưng". Điều khoản liên quan đến làm hàng giả trong phần này là tội đúc tiền đồng giả, với mức án cao nhất là xử chém.
Thời Vua Minh Mạng, năm thứ 8 (1827), triều đình phát hiện vụ việc thuộc viên phủ Kiến An công (Nguyễn Phúc Đài, con trai thứ năm của Vua Gia Long) tên là Hoàng Văn Quy làm giả ấn Kiến An công, bị người cáo phát, giao Bộ Hình nghiêm xét, bị xử án trảm hậu, Trưởng sử (người quản lý phủ của Kiến An công) là Phan Đình Thụy vì tội thất sát bị phạt.
Lê Tiên Long
Nguồn ANTG : https://antgct.cand.com.vn/khoa-hoc-van-minh/toi-lam-gia-thoi-xua-i771122/