Nguy cơ tử vong lên đến 50%
Mang thai đến tuần thứ 29, thai phụ 36 tuổi (ngụ tại Bình Dương) thấy xuất hiện những cơn hồi hộp, đánh trống ngực. Khi thai nhi đến tuần thứ 32, các bác sĩ phát hiện chị bị nhịp tim nhanh, có lúc lên đến 170 lần/ phút nên chỉ định cho bệnh nhân sử dụng thuốc. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc vẫn không hiệu quả.
Ngày 24.2, khi thai nhi được 37 tuần tuổi, thai phụ tiếp tục lên cơn hồi hộp và bị đánh trống ngực, đồng thời, chị bị mệt mỏi, buồn nôn diễn ra nhiều lần trong ngày nên gia đình đưa đến Bệnh viện Từ Dũ (TP.HCM) và được nhập viện.
ThS-BS Trần Lê Uyên Phương – Phó khoa Điều trị rối loạn nhịp, Bệnh viện Chợ Rẫy - kiểm tra lại sức khỏe của bệnh nhân sau khi can thiệp - Ảnh: PV
Tại đây, các bác sĩ tiếp tục điều trị thuốc và cắt cơn rối loạn nhịp nhiều lần nhưng tình trạng trên vẫn không cải thiện, có lúc nhịp tim của thai phụ lên đến 190 lần/phút.
BSCK2 Phạm Quang Nhật – Bệnh viện Từ Dũ, cho biết các bác sĩ đã cố gắng kéo nhịp nhanh ra khỏi cơn, nhưng không hiệu quả. “Chúng tôi đã mời các bác sĩ khoa Điều trị rối loạn nhịp, Bệnh viện Chợ Rẫy cùng hội chẩn, và tiến hành dùng thuốc chống rối loạn nhịp, sốc điện đến 5 lần nhưng vẫn không hiệu quả”, bác sĩ Nhật cho biết thêm.
Đánh giá tình trạng trên, nếu kéo dài có thể gây nguy hiểm cho thai phụ lẫn thai nhi nên ngày 3.3, Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Từ Dũ đã tiến hành hội chẩn và quyết định kết thúc thai kỳ. “Với tình trạng trên, nếu chỉ cần một cơn gắng sức khi thai gò, thì thai phụ sẽ không chịu nổi, thai nhi sẽ gặp nguy hiểm. Lúc này cả mẹ lẫn con có thể nguy cơ tử vong nên chúng tôi buộc phải kết thúc thai kỳ ngay lập tức”, bác sĩ Nhật giải thích.
Tuy nhiên, ThS-BS Trần Lê Uyên Phương - Phó khoa Điều trị rối loạn nhịp, Bệnh viện Chợ Rẫy, đánh giá việc mổ lấy thai đối với thai phụ lúc này tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ. Bởi lúc này, sau thời gian gần 2 tháng bị nhịp tim nhanh, thai phụ đã bắt đầu có những dấu hiệu suy tim, và tụt huyết áp. Nhịp tim nhanh, thời gian tâm trương giảm, tưới máu giảm, thai phụ có thể tử vong bất cứ lúc nào. Ngoài ra, nếu phẫu thuật lấy thai phải gây mê thì thuốc mê có thể làm giảm huyết áp của bệnh nhân nên rất nguy hiểm.
“Đây là một trường hợp rất hy hữu, nguy cơ tử vong lên đến 50%, do tiền sử thai phụ mắc bệnh lý rối loạn nhịp dai dẳng, kéo dài mà không có phương pháp nào có thể điều trị được, kể cả dùng thuốc lẫn sốc điện chuyển nhịp”, bác sĩ Phương nói.
Đứng trước những khó khăn trên, các bác sĩ đã quyết định lựa chọn mổ lấy thai bằng phương pháp vô cảm mà không chọn phương pháp gây tê; chỉ gây tê ngoài màng cứng.
Theo bác sĩ Nhật, điều lo lắng nhất lúc này là làm sao mổ bắt em bé nhưng không ảnh hưởng đến huyết động của sản phụ. Bởi chỉ cần một sơ sẩy nhỏ là sẽ mất cả mẹ lẫn con. Do đó cần sự phối hợp nhịp nhàng để có thể cứu cả mẹ lẫn con.
“Các bác sĩ của 2 bệnh viện đã nỗ lực hỗ trợ và phối hợp với nhau. Trong lúc mổ sản phụ có giảm huyết áp, phải sử dụng thuốc để nâng huyết áp; còn nhịp tim vẫn rất nhanh, dù các bác sĩ tiếp tục sốc điện thêm 2 lần nữa. Có lúc, nhịp tim lên đến hơn 190 lần/ phút, chỉ cần một cơ gò là tạo ra stress, tim của sản phụ không chịu nổi. Trải qua những giây phút căng thẳng, cuối cùng ê kíp mổ cũng đã thành công, giúp sản phụ vượt cạn an toàn, bé gái nặng hơn 2kg chào đời khỏe mạnh”, bác sĩ Nhật chia sẻ.
Lập bản đồ 3 chiều trong buồng tim
Sau khi bệnh nhân được phẫu thuật xong, ngày 4.3, sản phụ được chuyển đến khoa Điều trị rối loạn nhịp, Bệnh viện Chợ Rẫy, để tiếp tục điều trị dứt điểm căn bệnh rối loạn nhịp.
ThS-BS Trần Lê Uyên Phương cho biết, kết quả siêu âm tim cho thấy phân suất tống máu thất trái của bệnh nhân có thời điểm chỉ ở mức 36%, rất nguy hiểm.
Ngay lập tức, ê kíp đã tiến hành thăm dò điện sinh lý và sử dụng hệ thống lập bản đồ 3 chiều trong buồng tim, nhằm xác định nguyên nhân gây nhịp tim nhanh dai dẳng dẫn đến suy tim. Nguyên nhân gây nhịp tim nhanh dai dẳng ở sản phụ này được xác định là do ổ nhanh nhĩ xuất phát từ thành trước nhĩ trái, gần tĩnh mạch phổi trên trái đổ vào nhĩ trái.
“Chúng tôi đã áp dụng thủ thuật triệt đốt điện sinh lý tại nơi ổ rối loạn nhịp, đưa nhịp tim bệnh nhân quay về ổn định và cơ tim phục hồi sau 2 giờ. Đến hôm nay, (10.3), sức khỏe của bệnh nhân đã ổn định, hết tình trạng nhịp nhanh và có thể xuất viện trong tuần này”, bác sĩ Phương thông tin.
Theo bác sĩ ThS-BS Trần Lê Uyên Phương, đối với bệnh nhân này, việc đốt điện sinh lý bằng phương pháp bản đồ 3 chiều có tỷ lệ tái phát rất thấp, dưới 1%. Tuy nhiên, nếu sau 1 năm bệnh nhân không phát hiện gì bất thường thì bệnh không tái phát nữa.
BSCK2 Kiều Ngọc Dũng - Trưởng khoa Điều trị rối loạn nhịp, Bệnh viện Chợ Rẫy, cho biết lập bản đồ 3 chiều trong buồng tim để xác định được ổ rối loạn nhịp tim và thăm dò điện sinh lý để vẽ bản đồ rối loạn nhịp là một kỹ thuật rất mới ở Việt Nam hiện nay. Chính vì được được xác định chính xác nguyên nhân gây rối loạn nhịp tim kéo dài dai dẳng mà bệnh nhân này đã điều trị được tận gốc.
“Nếu sản phụ này đến Bệnh viện Chợ Rẫy sớm khi mới phát hiện nhịp tim nhanh từ lúc thai nhi mới 29 tuần tuổi thì đã được xử lý khỏi bệnh, không phải trải qua những giây phút nguy hiểm để giành giật sự sống cả mẹ và thai nhi như lúc này. Hiện chúng tôi sử dụng kỹ thuật triệt đốt rối loạn nhịp mà không sử dụng tia X, nên không ảnh hưởng sức khỏe cho cả sản phụ và thai nhi”, bác sĩ Dũng cho biết thêm.
Theo Bệnh viện Chợ Rẫy, mỗi năm khoa Điều trị rối loạn nhịp tiếp nhận khoảng 40.000 bệnh nhân bị rối loạn nhịp tim phức tạp đến điều trị ngoại trú; 2.500 bệnh nhân nội trú về các bệnh lý rối loạn nhịp nguy hiểm. Trong đó có rất nhiều bệnh nhân đang mang thai dẫn đến điều trị khó khăn, phức tạp…
Hồ Quang