GS-TS. Đặng Lương Mô là người Việt Nam đầu tiên được Nhật Bản phong hàm giáo sư
Thưa ông, TP.HCM đã xác định ngành vi mạch bán dẫn sẽ trở thành lĩnh vực cốt lõi để Thành phố bước vào kỷ nguyên mới. Thành phố đặt mục tiêu 5 năm tới sẽ trở thành trung tâm vi mạch bán dẫn của quốc gia và khu vực. Ông đánh giá thế nào về mục tiêu này?
Tôi cho rằng, TP.HCM chọn đi tiên phong phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, vi mạch là chuyện tất yếu, vì Thành phố đã có lịch sử 20 năm kinh nghiệm thiết thực về thiết kế vi mạch.
Quá trình hình thành ngành công nghiệp bán dẫn của Thành phố bắt đầu từ năm 2005, khi Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo thiết kế vi mạch (ICDREC) thuộc Đại học Quốc gia TP.HCM ra đời do tôi đề xuất và chính tôi làm cố vấn kỹ thuật cho Trung tâm. Còn nếu kể từ khi tôi giúp xây dựng Phòng thí nghiệm Nghiên cứu mô phỏng vi mạch dùng FPGA ở Đại học Bách khoa TP.HCM, thì phải nói, Thành phố đã có kinh nghiệm về giáo dục, đào tạo thiết kế vi mạch được 25 năm.
Một phần tư thế kỷ không phải là ngắn. Nó đủ dài cho TP.HCM chỉnh đốn “hàng ngũ” để vươn lên thành một mũi nhọn về giáo dục, đào tạo và thiết kế vi mạch.
Như giáo sư nói, TP.HCM đã tiếp cận ngành vi mạch bán dẫn từ 25 năm trước, vậy vì sao đến nay, Thành phố chưa vươn lên được trong lĩnh vực này?
Gần 20 năm trước, vào năm 2007, khi tôi lập ra Chương trình sau đại học về vi - điện tử ở Trường đại học Khoa học tự nhiên TP.HCM, chính tôi cũng trông mong các giảng viên trẻ tuổi của chương trình này sẽ trở thành những người tiếp bước đi tiên phong trong ngành vi mạch, bán dẫn.
GS-TS. Đặng Lương Mô là người Việt Nam đầu tiên được Nhật Bản phong hàm giáo sư. Ông có hơn 300 công trình nghiên cứu, 13 bằng phát minh - sáng chế được công nhận tại các nước phát triển. Nhiều công trình nghiên cứu của ông đã được trích đăng hoặc trích dẫn trong các sách nghiên cứu xuất bản tại Mỹ, nhất là sách giáo khoa sử dụng tại các trường đại học của Mỹ.
Với nhiều thành tựu đạt được trong lĩnh vực vi mạch, bán dẫn, GS-TS. Đặng Lương Mô đã làm rạng danh người Việt Nam trên lĩnh vực khoa học của thế giới. Ông được bầu vào Viện Hàn lâm khoa học New York từ năm 1992. GS-TS. Đặng Lương Mô còn góp phần quan trọng trong việc chế tạo con chip điện tử đầu tiên mang thương hiệu “made in Viet Nam”.
Trước đây, tôi đã đào tạo cơ bản về bán dẫn cho 2 giảng viên của Khoa Điện tử - Viễn thông, rồi giới thiệu cho cả hai sang Đại học Tokyo làm nghiên cứu sinh dưới sự hướng dẫn của GS-TS. Shibata Tadashi. Tiếc rằng, các giảng viên trẻ của Việt Nam không muốn dấn thân vào một lĩnh vực xa lạ, nên một trong 2 người đã bỏ về nước, còn một người thì chuyên làm về thiết kế để sau đó có học vị tiến sĩ rồi thì cũng về nước và không dấn thân vào lĩnh vực chế biến bán dẫn mà tôi kỳ vọng.
Nói đến đây, tôi càng thấy tiếc nuối một dự án đầu tư cho Trung tâm Chế biến vi điện tử (Center for Micro-Electronics Fabrication, viết tắt là CMEF), mà năm 2003, tôi đã gần như xin được từ Tập đoàn NTT (Nhật Bản), viện trợ miễn phí cho Việt Nam. Tổng giá trị của dự án lúc đó là 7,5 triệu USD (so với năm 2025, thì USD tăng giá 12 lần, tức là, ở thời điểm năm 2025, trị giá thực của gói viện trợ đó tương đương với 90 triệu USD).
Tiếc rằng, lúc đó, dù TP.HCM “tha thiết” muốn tiếp nhận gói viện trợ đó, nhưng Dự án CMEF đã không được Nhật Bản viện trợ cho Việt Nam. Sau đó, Nhật Bản đem viện trợ cho Malaysia, nên nước này đã chế tạo được vi mạch từ thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI.
Thời gian qua, TP.HCM đã có những bước đi mạnh mẽ, như đầu tư hạ tầng số, đào tạo nhân lực kỹ sư ngành vi mạch, đưa ra chính sách ưu đãi thu hút đầu tư ngành vi mạch. Những bước đi khởi đầu như vậy liệu đã đủ mạnh để Thành phố phát triển bứt phá ngành vi mạch bán dẫn thời gian tới, thưa ông?
Nếu nói về khả năng bứt phá, thì năng lực thực tế mà TP.HCM hiện có chỉ là một mảng của cả một nền công nghiệp bán dẫn, vi mạch. Tất nhiên, mảng này có đặc tính tương đối độc lập, nên cũng giúp tăng thu nhập đáng kể như cách nhiều công ty chuyên về thiết kế vi mạch thành công như Qualcom của Mỹ. Nhưng với Việt Nam thì không thể bằng lòng với một mảng đó được vì hiện nay, chúng ta là một nước có 100 triệu dân, có nhu cầu vô tận về bán dẫn, vi mạch. Do vậy, Việt Nam cần làm chủ được mọi khâu của quy trình, từ thiết kế đến chế tạo, kiểm thử, đóng gói và thêm cả quy trình về vật liệu cơ bản mà nhiều nước khác muốn làm cũng không được, vì không có nguồn nguyên liệu thô như chúng ta.
Nên nhớ rằng, trừ khâu thiết kế, tất cả những khâu khác Việt Nam đều chưa có kinh nghiệm. Riêng khâu kiểm thử, đóng gói thì Intel Việt Nam có triển khai với quy mô đáng kể, nhưng nếu chúng ta tự đứng ra làm, thì đó lại là vấn đề khác. Nên biết rằng, đóng gói ngày nay không hề giống như đóng gói ngày xưa. Đóng gói ngày nay là cả một lĩnh vực công nghệ phức tạp và đa dạng. Nó không những đòi hỏi những hình thức đóng gói đặc thù như đóng gói 3D, đóng gói 2xD (x có thể là 5, là 3…). Đồng thời, đòi hỏi những vật liệu đặc thù cho đóng gói.
Một số tập đoàn công nghệ lớn đang đầu tư vào TP.HCM. Theo ông, làm sao để không chỉ thu hút đầu tư, mà còn giữ chân và tăng cường chuyển giao công nghệ từ các nhà đầu tư này?
Cho đến nay, đã có nhiều tập đoàn hàng đầu về vi mạch, bán dẫn đầu tư vào Việt Nam. Đầu tiên, phải kể đến Renesas (Nhật Bản), đầu tư vào Khu chế xuất Tân Thuận từ năm 2004, với ý định lúc đầu là triển khai toàn bộ quy trình từ thiết kế đến chế tạo và kiểm thử, đóng gói. Tiếc rằng, lúc đó, Khu chế xuất Tân Thuận không đủ khả năng tiếp nhận tất cả như vậy, nên Renesas chỉ có thể triển khai hoạt động thiết kế.
Có một điểm có thể thấy là, riêng Renesas mới triển khai toàn bộ thiết kế vi mạch tại Việt Nam. Nghĩa là, người ta thiết kế ra đủ một con chip để đưa về sản xuất ở Nhật Bản. Còn những công ty khác thì chủ yếu chỉ thực hiện những khâu thâm dụng lao động, như dàn trải mặt bằng và kiểm tra thiết kế. Sở dĩ họ chọn khâu này vì chi phí lao động ở Việt Nam rẻ hơn so với ở nước họ.
Ngay như Intel Việt Nam, tuy đã có mặt ở TP.HCM từ năm 2005, nghĩa là đã được 20 năm, nhưng họ vẫn không triển khai khâu chế biến (front-end process), tức là khâu chế tạo vi mạch. Còn nói rằng, Intel Việt Nam có hoạt động kiểm thử, đóng gói tại Việt Nam lớn nhất trong các cơ sở chế tạo của Intel thì đúng và chúng ta trông đợi hoạt động đóng gói tiên tiến như đóng gói 3D, 2xD, cũng được triển khai.
Vấn đề quan trọng đối với Việt Nam bây giờ là làm sao giữ chân họ và để họ chuyển giao công nghệ cho chúng ta. Nhìn lại quá trình các nước Đông Á trên đường phát triển công nghiệp bán dẫn, vi mạch, có thể thấy, họ đều có những biện pháp ưu đãi đối với doanh nghiệp chuyển giao công nghệ, như ưu đãi về thuế, ưu đãi về bảo hộ công nghệ, ưu đãi về quyền sử dụng đất…
Nhưng, để làm được như các nước, Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng cần phải có sự chuẩn bị để đón nhận chuyển giao công nghệ đó. Phải nhìn nhận rằng, cho đến nay, tất cả những cơ sở giáo dục của chúng ta đều chưa có nơi nào có chuẩn bị khoa học và công nghệ cơ bản về chế biến bán dẫn để “hứng” được chuyển giao công nghệ chế biến, chế tạo bán dẫn.
Tôi cho rằng, TP.HCM nên sớm đầu tư cho một số cơ sở giáo dục đại học để những nơi này mở rộng hoạt động nghiên cứu và giáo dục đào tạo sang lĩnh vực chế biến, chế tạo bán dẫn, vi mạch.
Với lợi thế về nguồn nhân lực, hạ tầng và chính sách, TP.HCM nên ưu tiên phát triển mạnh ở khâu nào trong chuỗi giá trị vi mạch, thưa ông?
Có một câu nói kinh điển liên quan câu hỏi này do Chủ tịch, kiêm CEO ST MicroElectronics - một tập đoàn vi mạch lớn ở châu Âu thốt ra: “Không một nền công nghiệp điện tử hoàn chỉnh nào có thể thiếu một nền công nghiệp bán dẫn - vi mạch”. Có thể nói, trong chuỗi giá trị vi mạch, mọi khâu đều quan trọng, không thể bỏ qua khâu nào được!
Sau 50 năm đất nước thống nhất, ông kỳ vọng điều gì trong tương lai đối với ngành vi mạch, bán dẫn tại TP.HCM nói riêng và Việt Nam nói chung?
Chúng ta đã chậm hơn 50 năm trong sự nghiệp xây dựng một nền công nghiệp bán dẫn, vi mạch rồi. Bây giờ không còn thời gian để “kỳ vọng”, mà đã đến lúc, chúng ta phải xắn tay áo lên, dấn thân vào xây dựng một nền công nghiệp bán dẫn, vi mạch hoàn chỉnh. Tôi tiếc rằng, tôi đã quá già, chứ nếu trẻ hơn vài chục tuổi, thì tôi sẽ không ngồi yên ở đây, mà sẽ đứng ra phất cờ, hô hào mọi người cùng đứng lên, góp sức cho sự nghiệp vi mạch bán dẫn này.
Lê Quân thực hiện