Theo Sở Xây dựng TP. Hồ Chí Minh, hiện khoảng gần 96% hàng container thông qua cảng Cái Mép - Thị Vải là hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam
Sở Xây dựng TP. Hồ Chí Minh vừa có Văn bản số 20548/SXD-QLĐT về Đề án “Tiếp tục phát triển, hiện đại hóa cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép – Thị Vải thành cảng quốc tế trung chuyển lớn nhất cả nước và có tầm cỡ khu vực châu Á và thế giới” (Đề án).
Theo đó, Sở Xây dựng đã cập nhật, hoàn chỉnh nội dung Đề án, đồng thời dự thảo Tờ trình của UBND TP. Hồ Chí Minh gửi Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng, Dự thảo Quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, Dự thảo Tờ trình của UBND thành phố trình Ban Thường vụ Đảng ủy UBND thành phố.
Theo Tờ trình “dự thảo” khu cảng Cái Mép – Thị Vải hiện nay khu cảng chủ yếu hoạt động khai thác với vai trò cảng cửa ngõ. Khoảng gần 96% hàng container thông qua cảng là hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam và chỉ có khoảng hơn 4% là hàng container trung chuyển quốc tế (hầu hết là hàng trung chuyển cho Campuchia qua mạng lưới sông Tiền, sông Hậu).
Để trở thành cảng cửa ngõ khu vực kết hợp trung chuyển quốc tế, tỷ lệ thu hút hàng trung chuyển quốc tế của cảng Cái Mép - Thị Vải cần đạt từ 25% trở lên
Cảng Cái Mép – Thị Vải được định hướng trở thành cảng cửa ngõ khu vực kết hợp trung chuyển quốc tế. Do đó tỷ lệ thu hút hàng trung chuyển quốc tế cần đạt từ 25% trở lên.
Lộ trình phát triển, thu hút hàng hóa trung chuyển quốc tế với tỷ lệ dự kiến như sau: Đến năm 2030: Lượng hàng trung chuyển quốc tế đạt tỷ lệ đến 10%; giai đoạn 2030-2050 đạt từ 20-25%; lâu dài đạt đến 50%.
Theo Tờ trình “dự thảo” cảng Cái Mép – Thị Vải có đầy đủ tiềm năng phát triển, hiện đại hóa cảng cửa ngõ, trung chuyển quốc tế vì có đủ các điều kiện về vị trí địa lý chiến lược; điều kiện tự nhiên thuận lợi; hạ tầng giao thông kết nối; có sự quan tâm của các hãng tàu thế giới…
Cảng Cái Mép - Thị Vải có đầy đủ các điều kiện để phát triển thành cảng trung chuyển quốc tế có tầm cỡ khu vực châu Á và thế giới
Đề án đưa ra mục tiêu phát triển, hiện đại hóa đến năm 2030: Hoàn thiện hạ tầng kết nối, hệ thống cơ sở pháp lý; xây dựng lộ trình và bước đầu triển khai xanh hóa, tự động hóa; hoàn thiện cơ chế chính sách, hiện đại hóa công tác quản lý làm tiền đề để thu hút đầu tư, thu hút hàng hóa, củng cố vị thế cảng cửa ngõ xuất khẩu hàng đầu Việt Nam của Cái Mép – Thị Vải.
Năm 2050, hoàn thành đầu tư, nâng cấp năng lực cầu bến theo quy hoạch; hoàn thành xây dựng, nâng cấp các bến cảng xanh hóa, hiện đại hóa theo tiêu chuẩn quốc tế; triển khai mạnh mẽ các cơ chế chính sách đột phá để thu hút hãng tàu, hàng hóa quốc tế nhằm phát triển Cái Mép – Thị Vải và Cần Giờ trở thành cảng cửa ngõ, trung tâm trung chuyển quốc tế của TP. Hồ Chí Minh và khu vực, có quy mô tầm cỡ châu Á và thế giới.
Đề án của TP. Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiều giải pháp để phát triển cảng Cái Mép - Thị Vải thành cảng trung chuyển quốc tế có tầm cỡ khu vực châu Á và thế giới
Đề án đưa ra các giải pháp về hạ tầng cảng biển: Đầu tư xây dựng các dự án cảng biển trọng điểm khu vực Cái Mép bao gồm: Bến cảng Gemalink – giai đoạn 2, giai đoạn khởi động bến cảng Cái Mép Hạ và bến cảng Cái Mép Hạ hạ lưu. Tổng nhu cầu vốn đầu tư khoảng 280.600 tỷ đồng (nguồn vốn doanh nghiệp)…
Về mạng lưới đường bộ sẽ đầu tư hoàn thành các dự án kết nối vùng gồm: Dự án thành phần 3 thuộc Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu giai đoạn 1; nâng cấp mở rộng Quốc lộ 51, 55, 56 và cầu Phước An. Tổng nhu cầu vốn đầu tư khoảng 21.316 tỷ đồng (vốn ngân sách Trung ương).
Đề án cũng đưa ra nhiều giải pháp liên quan đến đầu tư các tuyến đường bộ, đường sắt để tiếp tục phát triển, mở rộng kết nối cảng Cái Mép - Thị Vải và các khu vực khác
Đầu tư hoàn thành các dự án kết nối khu vực như: Dự án nâng cấp, mở rộng đường Hội Bài – Phước Tân (ĐT 992), Dự án đường sau cảng Mỹ Xuân – Thị Vải, Tỉnh lộ 991 nối dài… với nhu cầu vốn khoảng 22.395 tỷ đồng.
Về đường sắt sẽ nghiên cứu và đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Bàu Bàng – Cái Mép gồm đoạn Bàu Bàng – An Bình (thuộc tuyến đường sắt TP. Hồ Chí Minh – Lộc Ninh) và đoạn An Bình – Cái Mép), tuyến nhánh Phước Tân – Trảng Bom (thuộc tuyến đường sắt Biên Hòa – Vũng Tàu. Tổng nhu cầu vốn khoảng 153.000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, Đề án cũng đưa ra các giải pháp về luồng hàng hải, đường thủy nội địa; xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và công trình dịch vụ hỗ trợ cảng biển; các giải pháp về xanh hóa dịch vụ cảng biển, ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số…
Quang Phương