Sụt lún bề mặt đất đang là vấn đề thực tế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hạ tầng, công trình dân sinh và phát triển kinh tế – xã hội của TP. Hồ Chí Minh. Ảnh: Xuân Anh/TTXVN
Liên quan vấn đề này, ngày 13/11, Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Hồ Chí Minh cho biết thành phố đang triển khai nhiều giải pháp để ứng phó lâu dài.
Theo Phòng Đo đạc, Bản đồ và Viễn thám (Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Hồ Chí Minh) nguyên nhân sụt lún được xác định gồm: Nền địa chất yếu, hoạt động giao thông với tải trọng lớn, tác động của công trình dân dụng và đặc biệt là khai thác nước ngầm quá mức.
Một số khu vực có tốc độ lún trên 10 mm/năm thường nằm trên nền địa chất yếu, ngay cả khi không có tác động từ xây dựng hay giao thông.
Hoạt động giao thông nặng, đặc biệt là tuyến đường sắt đô thị và các tuyến đường có lưu lượng xe container, cũng làm tăng tốc độ lún. Trong khi đó, tác động từ xây dựng dân dụng hiện nay chủ yếu mang tính tạm thời nhờ công nghệ móng cọc hiện đại.
Khai thác nước ngầm là nguyên nhân chính gây lún nền đất. Việc sử dụng nước ngầm quá giới hạn hoặc bê tông hóa diện tích làm giảm khả năng bổ cập nước mưa, hạ thấp mực nước ngầm, dẫn đến sụt lún. Hiện nay, thành phố đã hạn chế cấp phép khai thác và kiểm soát công suất, nhờ đó tốc độ lún giảm và các khu vực khai thác dần ổn định.
Theo số liệu quan trắc của Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Hồ Chí Minh và dự án INSAR vi phân từ năm 2010, TP. Hồ Chí Minh đã lập được bản đồ phân vùng lún đất và thiết lập hai trạm quan trắc lâu dài tại Khu Công nghiệp Tân Tạo và xã Bình Hưng.
Đến năm 2019, hiện tượng lún vẫn tiếp tục, với mức lún lớn nhất đo được là 31 mm/năm. Diện tích vùng lún nhanh (>15 mm/năm) là 14.775 ha, vùng lún tương đối nhanh (10–15 mm/năm) là 22.331 ha và vùng lún trung bình (5–10 mm/năm) là 29.560 ha.
Trong khi đó, Báo cáo của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) cho thấy sụt lún diễn ra liên tục từ năm 1990 đến nay, với độ lún tích lũy khoảng 100 cm. Tốc độ lún hiện tại ước khoảng 2–5 cm/năm, khu vực tập trung cao như công trình thương mại có thể lên 7–8 cm/năm, gấp khoảng hai lần mực nước biển dâng. Sự kết hợp giữa sụt lún, triều cường và mực nước biển dâng làm TP. Hồ Chí Minh đứng trước nguy cơ "chìm dần" và ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển lâu dài trong bối cảnh biến đổi khí hậu.
Trước thực trạng đó, Bộ ngành và TP. Hồ Chí Minh đã triển khai nhiều biện pháp ứng phó. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang thực hiện dự án "Hiện đại hóa hệ thống độ cao quốc gia" (2022–2025) để xác định độ cao trung bình mặt nước biển; Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Hồ Chí Minh đang hoàn thiện hệ thống mốc độ cao hạng IV để phục vụ quy hoạch, phát triển kinh tế – xã hội và ứng phó biến đổi khí hậu, trong đó có việc đánh giá sụt lún.
Về hạn chế khai thác nước ngầm, thành phố ban hành Kế hoạch giảm khai thác nước dưới đất đến năm 2025, giảm lưu lượng khai thác từ 716.581 m³/ngày xuống còn 255.000 m³/ngày, đồng thời ban hành bản đồ phân vùng hạn chế khai thác. Các biện pháp này giúp mực nước ngầm dần hồi phục ở nhiều khu vực thuộc Quận 12, huyện Củ Chi, huyện Hóc Môn (cũ). Thành phố cũng đẩy mạnh khai thác nước mặt, nâng cấp mạng lưới cấp nước sạch, vận động người dân sử dụng nước sạch thay cho nước ngầm.
Song song đó, Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh đang thực hiện nhiệm vụ mô phỏng dự báo biến dạng mặt đất, phối hợp với JICA xây dựng dự án kỹ thuật ứng phó sụt lún. Khi triển khai, các dự án này sẽ đánh giá toàn diện nguyên nhân và đề xuất giải pháp tổng thể để giảm sụt lún.
Theo đánh giá của các chuyên gia, sụt lún kết hợp biến đổi khí hậu, triều cường và mực nước biển dâng là mối đe dọa nghiêm trọng. TP. Hồ Chí Minh cần xây dựng hệ thống giám sát và dự báo thường xuyên, áp dụng công nghệ hiện đại, nhằm hỗ trợ chính quyền ra quyết sách phù hợp, hướng tới phát triển đô thị bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ hạ tầng quan trọng.
Xuân Anh/vnanet.vn