GS. Trần Phương.
Mỗi lần suy nghĩ về Trần Phương, tôi cứ tự nhiên hình dung: trong khung trời của khoa học kinh tế ở Việt Nam thập kỷ 1960-1970, một khung trời cũng không lấy gì làm cao rộng và quang đãng lắm, Trần Phương là một ngôi sao.
Xin không nói về ngôi sao theo ý nghĩa như các vì tinh tú mà người ta thường ví với các vĩ nhân. Ngôi sao ở đây là theo ý nghĩa thông thường, để nói về những con người nổi bật trong lĩnh vực của mình, cũng như ta nói về những ngôi sao trong điện ảnh, âm nhạc, đá bóng…
Quả thật rằng những ai đã từng sống và làm việc trong Viện Kinh tế học và cả trong Ủy ban Khoa học Xã hội những năm đó, đều có ấn tượng sâu sắc về con người Trần Phương: Sắc sảo, ham mê, dấn thân, thẳng thắn, tài hoa và có một sức thu hút rất mạnh cả về trí tuệ lẫn phong cách.
Trần Phương tên thật là Vũ Văn Dung, sinh năm 1927, con một nhà nho nghèo ở một làng quê huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Ông đậu tiểu học khi chưa đầy 12 tuổi, nhưng sau đó phải ở nhà. Thời đó, chỉ ở Hà Nội mới có trường trung học. Nhà nghèo, lấy tiền ở đâu mà ra Hà Nội ăn học.
Rồi bỗng có người mách bảo: muốn ra Hà Nội học, chỉ có một cách là thi vào trường Bưởi, mà phải giành lấy vị trí đầu bảng để được Nhà nước bảo hộ cấp học bổng toàn phần, nghĩa là được ăn ở nội trú không mất tiền. Vũ Văn Dung đã đạt được mục tiêu đó lúc 14 tuổi.
Rồi học ở trường Bưởi 2 năm, khi mới 16 tuổi, ông đã sớm tham gia hoạt động cách mạng. Bị mật thám truy nã, ông phải tạm lánh về vùng quê để tiếp tục hoạt động. Hai năm sau đó, năm 1945, ở tuổi 18, ông trở thành một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở huyện tại quê hương ông.
Gần như suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động ở vùng địch hậu đồng bằng sông Hồng, đảm nhiệm nhiều trọng trách khi còn rất trẻ: Bí thư Huyện ủy năm 19 tuổi, Phó Bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên năm 21 tuổi, Giám đốc Sở Thông tin Liên khu III và kiêm Chủ nhiệm báo Cứu quốc Liên khu III năm 22 tuổi, Khu ủy viên Khu Tả ngạn năm 27 tuổi. Thời ấy ai đi làm cách mạng cũng phải dùng bí danh để tránh con mắt của mật thám Pháp và Nhật. Cái tên Trần Phương xuất hiện từ đó, cũng là bí danh cuối cùng của ông trong thời gian hoạt động ở địch hậu và được giữ lại cho đến tận bây giờ.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ông được Trung ương cử sang Trung Quốc để đào tạo về lý luận ở Học viện Mác - Lênin. Khi trở về, ông đã từng có ý định làm nghề viết văn; nhưng cũng như phần lớn cán bộ cách mạng thời đó, tổ chức của Đảng “đặt đâu ngồi đấy”.
Ông được Trung ương cử về Trường đảng Nguyễn Ái Quốc. Lúc đầu ông là trợ lý Khoa Kinh tế, sau đó là Chủ nhiệm Khoa Kinh tế. Còn trẻ, thông minh, sắc sảo, hiếu học, chẳng bao lâu, ông đã nắm vững những tri thức cơ bản của kinh tế học Mác và trở thành một trong những người nhuần nhuyễn nhất bộ Tư bản. Sự nghiệp kinh tế học của ông bắt đầu từ đó.
Năm 1959, ông được cử về Ủy ban Khoa học Nhà nước với cương vị Phó Viện trưởng Viện Kinh tế học, cùng ông Bùi Công Trừng xây dựng viện này. Đến giữa thập kỷ 1960 ông là Viện trưởng của Viện.
Trong một bài viết nhân kỷ niệm 35 năm Viện Kinh tế học, ông kể lại: “Tôi chỉ vừa mới rời khỏi ghế học trò về kinh tế. Truyền thụ lý thuyết thì tôi làm được, còn nghiên cứu kinh tế Việt Nam thì tôi chưa làm bao giờ. Ngay Viện Kinh tế làm gì tôi cũng chưa hình dung nổi… Ngay bản thân mình, sau 9 năm đánh giặc, cũng chỉ học lý thuyết kinh tế trên sách vở. Đã ai biết nghiên cứu ra sao? Đã ai biết kinh tế Việt Nam như thế nào? Những câu hỏi ấy không những lặp đi lặp lại trong những ngày đầu xây dựng Viện, mà còn theo đuổi tôi nhiều năm sau này nữa!”.
Tuy mới vào nghề, như ông nói, còn mò mẫm tìm lối đi cho Viện và cho mình, nhưng với một trí nhớ và một sức đọc tuyệt vời của tuổi “ngoại tam thập”, chỉ mấy năm sau, ông đã vượt trội lên như một trong những chuyên gia kinh tế xuất sắc lúc đó (trong cái bầu trời lúc đó).
Khoảng giữa thập kỷ 1960, ông đã sớm có nhiều ý kiến mới, sắc sảo về kinh tế. Đồng thời ông cũng đủ nhậy bén để chọn những cách, những địa chỉ và những thời điểm thể hiện những quan điểm của mình. Chính nhờ đó, những ý kiến của ông không bị bỏ qua, ngược lại, hầu hết đã được ghi nhận, mặc dầu trong khá nhiều trường hợp nó khá gai góc, trái ngược với suy nghĩ phổ biến đương thời.
Giới kinh tế học thời đó có một đặc điểm khác với nhiều ngành khoa học khác ở một điểm: Các ngành khoa học khác thì chỉ cần nghiên cứu, phát minh, viết sách, giảng dạy,… tức là đi vào nghiệp vụ chuyên môn, mà thời đó chúng tôi gọi là “việc đạo”. Còn giới kinh tế học thì ngoài “việc đạo” ra, còn có “việc đời”, tức là phải tham gia vào chính đời sống kinh tế. Điều này thì Các Mác cũng đã từng nói: “Kinh tế học không có một phòng thí nghiệm, mà phải ứng dụng ngay vào xã hội”. Cuộc đời và sự nghiệp của Trần Phương cũng có cả “việc đạo” và cả “việc đời”.
Về “việc đạo”, giới kinh tế học thời đó còn có một đặc điểm nữa khác với nhiều ngành khoa học khác: Phần sản phẩm tinh túy và công phu nhất của nó lại không phải là những công trình xuất bản công khai, mà là những kiến nghị, những đề án, những báo cáo... Những thứ đó không thể in và phát hành rộng rãi trong xã hội, mà chỉ có thể trực tiếp gửi cho những cơ quan cao nhất của Đảng và Chính phủ.
Bởi vậy, Trần Phương cũng giống như nhiều nhà kinh tế học cỡ lớn thời đó, như Bùi Công Trừng, Đoàn Trọng Truyến… không viết nhiều sách. Điều này ông cũng đã từng giải thích cho những thế hệ sau ông: "Thời đó những ý kiến hay nhất của bọn mình thì lại không thể công bố được. Những ý tưởng kinh tế quan trọng nhất chỉ có thể có vài người đọc thôi. Nhưng vài người đó lại quyết định cả vận mệnh của nền kinh tế quốc gia. Do đó bọn mình không dành nhiều thì giờ để viết sách. Thì giờ nhiều nhất vẫn là phải dành để xử lý những vấn đề mà Trung ương, Bộ Chính trị và Chính phủ đặt ra...".
Cũng vì vậy, nếu nói đến những tác phẩm để ghi vào lý lịch khoa học của Trần Phương thì không nhiều: mấy cuốn sách và vài chục bài luận văn. Ông có 4 cuốn sách đã xuất bản, mà cũng không mấy người biết đến: "Chủ nghĩa tư bản ở nông thôn Việt Nam sau cải cách ruộng đất", "Kinh tế học phổ thông" (2 tập), "Cách mạng ruộng đất ở Việt Nam", "Kinh tế Bungari từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN".
Viết một công trình khoa học kinh tế để công bố, nhất là nói đến những vấn đề đường lối, quan điểm chiến lược, không dễ dàng chút nào. Thường phải gọt đẽo kỹ càng, nhiều khi vì kỹ quá lại thành ra không còn bao nhiêu cái sắc nét nữa. Cũng do đó, những cái thú vị nhất lại là những cái "lưu hành nội bộ".
Phần "Lưu hành nội bộ" sáng giá nhất trong cuộc đời khoa học của Trần Phương có lẽ là những đóng góp trực tiếp cho Tổng Bí thư Lê Duẩn.
Từ năm 1965 trở đi, ông bắt đầu được Tổng Bí thư chú ý vì những ý kiến và những bài nghiên cứu của ông. Sau đó, ông trở thành một trong những trợ lý gần gũi nhất của Tổng Bí thư. Trên cương vị đó, ông đã có những ảnh hưởng đáng kể đến những suy nghĩ và quyết định của Tổng Bí thư trong lĩnh vực kinh tế.
Nói rằng những ý kiến của Trần Phương có một phần ảnh hưởng đáng kể tới những suy nghĩ của Tổng Bí thư, cũng không có nghĩa rằng Trần Phương là cái bóng của Tổng Bí thư. Bằng những hiểu biết và những thực tế mà ông quan sát được, ông đã can ngăn nhiều ý tưởng, góp phần hoàn thiện và có phần ảnh hưởng đến những suy nghĩ của Tổng Bí thư. Tổng Bí thư trọng dụng ông vì lý do đó và có "sự gắn bó" trong suốt 20 năm, cho tận tới khi Tổng Bí thư qua đời (1986).
Về “việc đời”, tức những đóng góp cho đời sống kinh tế, thì có thể ghi nhận rằng Trần Phương đã có một số tác động tích cực cho những chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam, đặc biệt là trong những bước khởi đầu gian nan nhất.
Nếu ví công cuộc chuyển đổi kinh tế của Việt Nam như việc phá một căn nhà cũ để xây một ngôi nhà mới, thì trong sự nghiệp lớn lao này, Trần Phương có đóng góp nhiều viên gạch (và trước đó nữa thì khá nhiều nhát búa). Những việc đó đến nay không mấy người biết rõ. Vì thế không phải không có những cách nghĩ chưa trọn vẹn về ông. Nhưng nhìn nhận về sự nghiệp tham chính của ông không phải là việc của bài này. Đó sẽ là chuyện của những cuốn sử.
Năm 1976, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, Trần Phương trúng cử Ban Chấp hành Trung ương. Đến năm 1977, Trần Phương được điều ra khỏi "nghề" nghiên cứu khoa học kinh tế để đi vào điều hành kinh tế.
Trước hết, ông được cử giữ chức Thứ trưởng thứ nhất Bộ Nội thương. Vào năm 1979, ông chuyển sang làm Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Ở đây, ông đã làm một việc tày đình nữa là dám cắt bỏ hàng mấy chục dự án đầu tư của các ngành và các địa phương, vì ông thấy đó là sự phân tán vốn đầu tư vào những việc không có hiệu quả, trong khi những lĩnh vực “nước sôi lửa bỏng” thì không có vốn. Ông muốn chấm dứt tình trạng đã kéo dài nhiều thập kỷ: cái gì cũng muốn làm một tý, rút cục không có gì đến nơi đến chốn cả.
Đến năm 1981, ông được tái cử làm Bộ trưởng Bộ Nội thương. Ở đây ông đã thực thi nhiều tư tưởng kinh tế mà ông nung nấu từ thời ở Viện Kinh tế học. Trong đó có một việc "tày đình" nữa là dẹp bỏ các cửa hàng cung cấp đặc biệt ở Nhà Thờ, Tôn Đản, Vân Hồ, Đặng Dung, điều mà cũng phải dũng cảm lắm mới dám làm.
Nhậm chức Bộ trưởng chưa đầy một tháng, ông đã trình Bộ Chính trị một bản kiến nghị nổi tiếng: "Kiến nghị về cải tiến quản lý thương nghiệp". Trong đó ông vạch rõ: Với cơ chế "mua như cướp, bán như cho" hiện hành thì ngành thương nghiệp hoàn toàn bị tê liệt. Để cởi trói cho ngành thương nghiệp, ông kiến nghị: bãi bỏ chế độ tem phiếu, bãi bỏ hệ thống giá cung cấp và hệ thống giá thu mua, cho phép ngành thương nghiệp mua theo giá thỏa thuận, bán theo giá tự do.
Thời đó thì bản kiến nghị này là "phát súng thần công" bắn vào cơ chế kế hoạch hóa tập trung, mở đường cho cơ chế thị trường. Nó gây ra một cuộc tranh luận hết sức căng thẳng trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Chính phủ. Cuối cùng, nó chỉ được chấp nhận một cách dè dặt: chế độ cung cấp bị thu hẹp một phần, ngành thương nghiệp có thêm một số quyền tự do hành động.
Phải 5 năm sau, khi ông giữ chức Phó Thủ tướng phụ trách phân phối lưu thông thì bản kiến nghị của ông mới giành được sự đồng tình ủng hộ của các bộ có liên quan, dẫn tới cuộc cải cách giá và lương năm 1985. Kết quả là: hệ thống giá được tự do hóa, tiền lương được tiền tệ hóa, mọi hoạt động mua và bán đều theo giá thị trường. Nhưng cuộc cải cách đã dẫn đến một đợt lạm phát phi mã và vì thế, ông được miễn nhiệm chức vụ Phó Thủ tướng, trở lại làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, phụ trách Viện Kế hoạch dài hạn và Phân bố lực lượng sản xuất cho đến khi nghỉ hưu.
Tôi vẫn nhớ, có lần, vào khoảng 1983-1984, ngay từ khi ở đỉnh cao của quyền lực, Trần Phương đã nói với tôi: "Kể ra làm Phó Thủ tướng vài năm để thi thố những tài năng của mình cũng là điều thú vị chứ cậu? Sau đó tớ sẽ trở về làm nghề gõ đầu trẻ. Đó cũng là một trong những nghề tớ thích nhất trên đời". Điều ông nói hôm đó sau này đã trở thành lời tiên tri.
Thực tế thì ông đã bắt đầu sự nghiệp đào tạo cán bộ (mà nay gọi là “đào tạo nguồn nhân lực”) ngay từ buổi đầu đảm nhiệm chức năng lãnh đạo Viện Kinh tế học – một trong những viện được thành lập đầu tiên trong Ủy ban Khoa học Nhà nước những năm đầu 1960, khi mà đất nước vừa mới ra khỏi cuộc kháng chiến chống Pháp và bước vào khôi phục và phát triển kinh tế.
Nền kinh tế cũng như các cơ quan quản lý và nghiên cứu kinh tế thời đó là những nơi "chiêu hiền đãi sĩ". Bất cứ ai có khả năng nghiên cứu đều được Viện trưởng "vời".
Nhưng như ông nói sau này, ông đã vời về đó hơn 400 con người, rồi lại phải ký quyết định chuyển công tác cho khoảng trên 300 vị. Tại sao vậy? Hầu hết những cán bộ nghiên cứu đều không từ một nguồn đào tạo đầy đủ nào cả, mà lấy ngang lấy tắt: một số từ trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, một số từ các ban nghiên cứu của Phủ Thủ tướng, một số từ các cơ quan tham mưu của quân đội, một số từ các bộ, các ty, sở...
Những người này đã mất phần lớn thời gian cho cuộc cách mạng và kháng chiến. Tri thức nghiên cứu không đủ, cái đà nghiên cứu khoa học cũng không có, nên hiệu quả nghiên cứu rất hạn chế. Thực tế đó làm nảy sinh trong đầu Viện trưởng Trần Phương một ý tưởng: Phải đào tạo những nhà kinh tế. Ông đã từng mở một lớp bồi dưỡng cho các cán bộ đầu đàn của Viện Kinh tế học, do các chuyên gia Liên Xô giảng dạy. Nhưng thế hệ này còn làm việc được bao lâu nữa.
Về lâu dài, phải bắt đầu đào tạo lớp trẻ, tức là tuyển những học sinh tốt nghiệp phổ thông để đào tạo chính quy. Muốn thế, phải mở ra ở bậc đại học một khoa chuyên về Lý luận kinh tế. Khoa đó không thể để trong Trường Đại học Kinh tế Quốc dân là nơi có mục tiêu đào tạo cán bộ thực hành. Thế là Khoa Kinh tế Chính trị thuộc Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập vào tháng 11/1974 với nhiệm vụ là đào tạo cán bộ kinh tế chính trị có khả năng phân tích, hoạch định chính sách, khả năng nghiên cứu kinh tế chính trị. Trần Phương là người sáng lập và cũng là Chủ nhiệm khoa đầu tiên.
Thầy Trần Phương đã huy động hầu hết cán bộ của Viện Kinh tế sang làm cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý, thậm chí cả cán bộ hành chính cho khoa này. Hệ thống thư viện, phòng tư liệu của Viện Kinh tế cũng được ông giao nhiệm vụ phục vụ nhu cầu học tập và giảng dạy của khoa.
Khi khoa mới được thành lập, Trần Phương đã dành thời gian trực tiếp lên lớp giảng bài và báo cáo ngoại khóa cho sinh viên. Những ai đã được nghe ông giảng bài, hoặc nghe ông nói chuyện đều có ấn tượng rất sâu sắc về kiến thức uyên thâm, về phương pháp dạy, hình thành ở người học bản lĩnh, phương pháp tư duy và đặc biệt là niềm say mê khám phá khoa học.
Trần Phương rất quan tâm đến hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên, bởi chính ông là một nhà nghiên cứu. Trong 4 năm học, sinh viên Khoa Kinh tế được 3 lần đi thực tập để khảo sát thực tế và viết báo cáo khoa học. Trần Phương đã nhiều lần trực tiếp đưa sinh viên xuống địa bàn thực tập, trực tiếp đọc, góp ý cho các luận văn. Về viết, ông rất nghiêm khắc và đòi hỏi cao. Ông đặc biệt chú trọng đến tính độc lập, sự sắc sảo và cả những gai góc trong nghiên cứu. Nhờ vậy, sinh viên của ông trưởng thành nhanh về năng lực và bản lĩnh nghiên cứu khoa học.
Nhưng Trần Phương chỉ trực tiếp làm Chủ nhiệm Khoa trong 4 năm (1974-1978). Vào những năm cuối thập kỷ 70 thế kỷ XX, việc "truyền đạo" chỉ là một phần trong các hoạt động của ông. Việc đời còn ngổn ngang bao cuốn hút: nhiều vấn đề đại sự của quốc gia đang đòi hỏi ông phải tham gia giải quyết. Sau khi đã thành lập Khoa Kinh tế và vực nó cho có đà, ông đã trao chức Chủ nhiệm khoa cho một Viện trưởng mới lên thay ông, để ông rảnh tay lo "việc đời".
Khi về nghỉ hưu ở tuổi 65, ông bắt tay vào thực hiện mơ ước “làm nghề gõ đầu trẻ”. Và khác với cái mơ ước viết văn 40 năm trước, lần này ông đã toại nguyện. Từ năm 1996, ông đứng ra thành lập trường Đại học Dân lập Quản lý và Kinh doanh Hà Nội. Đây cũng là một trong những nơi quy tụ nhiều nhân tài nhất trong lĩnh vực kinh tế của đất nước: hàng trăm giáo sư, tiến sĩ, trong đó có một chục vị đã từng giữ chức Bộ trưởng, Thứ trưởng, đã về đây làm việc cùng ông, đào tạo nên hàng chục nghìn trí thức trẻ cho đất nước.
Có câu hát quan họ "Còn duyên kẻ đón người đưa. Hết duyên đi sớm về trưa một mình". Ông quả là đã thôi quyền lực, thôi khả năng ban phát chức tước và lợi ích cho người khác rồi. Nhưng nhân tài vẫn về với ông. Những người đồng sự cũ vẫn không để ông "một mình".
Hẳn là trong thời gian ông cầm quyền, từ Viện trưởng Viện Kinh tế học cho tới Phó Thủ tướng, ông đã để lại những dấu ấn và những cảm tình không phai mờ nơi những người quanh ông. Bởi lẽ đó, và có lẽ cũng chỉ bởi lẽ đó thôi, mà đến khi cả quyền, cả chức đã hết, thì tình nghĩa vẫn đầy. Hóa ra ông vẫn còn "duyên".
Hà Nội, ngày 14 tháng 4 năm 2003.
———————————————————————————-
(*) Đặng Phong (1937-2010) tốt nghiệp ngành lịch sử của Đại học Hà Nội vào năm 1960 và Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội vào năm 1964. Ông đã từng làm Trưởng phòng nghiên cứu Lịch sử kinh tế tại Viện Kinh tế học (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam); Phó Tổng biên tập Tạp chí Thị trường và Giá cả, (Ủy ban Vật giá Nhà nước); Trưởng khoa Kinh tế (Trường đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội); giảng viên thỉnh giảng tại một số trường đại học, cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước.
Đặng Phong (*)