Có nên xây dựng thêm sân bay mới?
Vừa qua, Văn phòng Chính phủ có văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà về đề xuất xây dựng sân bay quốc tế và hệ thống hạ tầng giao thông liên vùng tại khu vực dự kiến hình thành tỉnh Ninh Bình mới sau khi hợp nhất 3 địa phương.
Theo đó, Phó Thủ tướng giao Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với UBND tỉnh Ninh Bình mới và các cơ quan liên quan để nghiên cứu đề xuất của doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Có thể nói, việc xem xét nhu cầu và sự cần thiết của một sân bay mới phải được đặt trong bối cảnh hiện có các sân bay lân cận. Từ trước đến nay, phương pháp tiếp cận việc quy hoạch hệ thống sân bay toàn quốc chỉ xem xét từng tỉnh thành riêng lẻ độc lập nhau và đưa ra các tiêu chí cùng thang điểm đánh giá nhu cầu và tính khả thi của từng sân bay cho từng địa phương.
Phương pháp đó rất sai lầm trên phương diện chiến lược kết nối hàng không vùng và toàn quốc cũng như kết nối hàng không quốc tế. Nếu phương pháp tiếp cận đó của Bộ Giao thông Vận tải cũ tiếp tục áp dụng cho việc nghiên cứu xem xét đề xuất xây dựng sân bay Ninh Bình thì kết quả sai lầm sẽ là việc đưa thêm sân bay Ninh Bình vào Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030.
Mặc dù trong vài năm gần đây, Ninh Bình là một điểm du lịch thu hút đông đảo khách tham quan bởi các di sản lịch sử và nhiều cảnh đẹp nổi tiếng như: Hang Múa, Tràng An, Tam Cốc Bích Động, Vân Long...
Tuy nhiên, khách du lịch đường hàng không thường đến du lịch Hà Nội, hay Thanh Hóa, hay Hải Phòng rồi mới đến Ninh Bình bằng đường bộ hay đường sắt. Rất ít khách du lịch ở xa chỉ đi đến riêng Ninh Bình, cho nên nếu có sân bay Ninh Bình cũng không đủ khách cho một chuyến bay từ một sân bay trong nước đến Ninh Bình, chứ nói chi đến từ một sân bay quốc tế.
Khi đường bộ và đường sắt càng phát triển tốt, và nếu có đường sắt cao tốc nữa sẽ càng không có nhu cầu cho một sân bay Ninh Bình.
Quy hoạch phải dựa trên tổng thể
Một vấn đề chồng chéo trong quy hoạch sân bay hiện nay đó là đang có tư duy quy hoạch “vùng hóa”, “địa phương hóa”. Quy hoạch sân bay phải dựa trên khoa học và tính thực tế thay vì cảm tính “vùng”. So với các nước trong khu vực và thế giới, số sân bay dân dụng của Việt Nam chưa nhiều. Việc các tỉnh mong muốn có sân bay để phát triển kinh tế, xã hội, du lịch là chính đáng.
Tuy nhiên, việc xây dựng sân bay mới cần được tính toán dựa trên nhu cầu thực sự, quy mô phù hợp với hệ thống sân bay toàn quốc, phù hợp với khả năng huy động vốn đầu tư xây dựng và bảo đảm sự hài hòa lợi ích giữa địa phương với nhà đầu tư và hành khách (HK).
Theo công bố của Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV), trong số 21 sân bay do ACV quản lý và khai thác, không kể sân bay Vân Đồn, đến nay có 15 sân bay hoạt động có lãi, 6 sân bay còn lại vẫn lỗ. Nhưng cách tính này chỉ dựa trên thu chi tài chính phần dân dụng, chưa tính chi phí đầu tư sửa chữa khu bay.
Nếu tính chung chỉ 4 sân bay đông khách nhất là Tân Sơn Nhất, Nội Bài, Đà Nẵng, Cam Ranh mới có thể có lãi, 17 sân bay còn lại thuộc ACV và sân bay Vân Đồn đều lỗ. Do đó, cần phải xem xét kỹ lưỡng nhu cầu sản lượng khi lập quy hoạch sân bay, bởi nếu làm quy hoạch sai sẽ gây lãng phí rất lớn.
Hiện nay phần lớn sân bay nội địa hoạt động dưới năng lực thiết kế. Do đó, về nhu cầu sân bay mới phải được đánh giá theo cự ly đối với sân bay hiện có ở lân cận. Về quy mô, cần đánh giá theo sản lượng tiềm năng. Quy hoạch hệ thống cảng hàng không toàn quốc giai đoạn 2021-2030 dự kiến Việt Nam sẽ có 28 cảng và tầm nhìn đến năm 2050 có 31 cảng, trong đó có 14 cảng quốc tế.
Tuy nhiên, nếu tính sản lượng HK/100 dân, tương ứng vùng địa lý của từng sân bay, cho thấy rõ dự báo đó là quá lớn. Như sân bay Điện Biên có sản lượng HK/100 dân năm 2019 chưa tới 10 HK, nhưng dự báo năm 2030 có 135 HK (tăng 13,5 lần). Sân bay Cà Mau có sản lượng HK/100 dân năm 2019 chưa tới 3 HK, nhưng dự báo năm 2030 có 165 HK (tăng 55 lần). Sân bay Sa Pa không có sản lượng năm 2019 nhưng lại dự báo năm 2030 có 455 HK/100 dân.
Cần làm rõ cơ chế huy động vốn tư nhân
Trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư công không thể đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cảng hàng không, việc huy động nguồn vốn tư nhân là cần thiết và các phương thức hợp tác công tư cần được xem xét kỹ lưỡng.
Khi nhu cầu vận chuyển hàng không gia tăng nhanh, việc thương mại hóa hay tư hữu hóa cơ sở hạ tầng hàng không là một biện pháp hiệu quả được sử dụng cho nhiều sân bay trên thế giới. Kinh nghiệm và khuynh hướng phát triển hợp tác công - tư về sân bay trên thế giới cần được xem xét để vận dụng cho Việt Nam.
Việc hợp tác công - tư này chủ yếu giữa chính quyền địa phương, vùng miền hay quốc gia với các hãng hàng không, các công ty sân bay, các công ty hạ tầng giao thông trong nước và quốc tế vốn có kinh nghiệm về quản lý và điều hành hoạt động sân bay, chứ không phải đơn thuần là nhà đầu tư có vốn.
Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy chỉ các sân bay quốc tế có quy mô lớn và tốc độ phát triển nhanh mới có khả năng thu hút đầu tư tư để phát triển, còn các sân bay nội địa quy mô nhỏ khó thu hút đầu tư tư để xây dựng và phát triển vì khả năng có lợi nhuận không cao, thậm chí bị lỗ.
Thực tế là việc huy động nguồn vốn tư nhân vào phát triển hạ tầng hàng không theo hình thức BT “đổi đất lấy hạ tầng” đang gặp nhiều vướng mắc, cần xem xét lại. Trước đó, cũng từng có những lời kêu gọi đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (PPP) với 6 cảng hàng không Đồng Hới, Rạch Giá, Cà Mau, Sa Pa, Lai Châu, Quảng Trị.
Nhưng theo tôi, hợp tác công - tư theo đúng nguyên tắc cổ phần thì tư nhân không dại gì đầu tư vào sân bay nếu lỗ, trừ khi có những ý đồ khác như kinh doanh địa ốc trá hình trong sân bay.
Chính sách dự kiến áp dụng trong đề án định hướng huy động nguồn vốn xã hội đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không cần xem xét lại một cách kỹ lưỡng. Cần tách bạch giữa dự án xây dựng sân bay với dự án huy động nguồn vốn từ quỹ đất để xây sân bay.
PGS.TS NGUYỄN THIỆN TỐNG, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Kỹ thuật hàng không, Trường ĐH Bách khoa TPHCM