Trên đất Yên Lộ

Trên đất Yên Lộ
20 giờ trướcBài gốc
Cổng làng Yên Lộ.
Làng Yên Lộ nằm bên tả ngạn sông Chu. Theo các tài liệu lưu giữ tại địa phương và lưu truyền dân gian, người dân nơi đây tin rằng, làng có lịch sử lập dựng từ thời Lý. Thời Lý, Trần, Lê làng thuộc huyện Lương Giang, thời Lê Trung hưng thuộc huyện Thụy Nguyên. Vào thời Nguyễn, làng có tên An Lộ (tên nôm là làng Lỗ) thuộc xã Phù Chẩn, tổng Phù Chẩn, huyện Thụy Nguyên. Đời vua Đồng Khánh (nhà Nguyễn), làng được đổi tên Yên Lộ và tên gọi này được giữ cho đến ngày nay.
Nhờ phù sa sông Chu bồi đắp đã tạo nên sự bằng phẳng và tốt tươi cho vùng đất Yên Lộ. Dẫu vậy, giữa thế đất bằng phẳng, ở Yên Lộ lại có những ngọn núi “sót” mọc lên điểm tô cho một miền đồng bằng rộng lớn. Tùy thuộc vào dáng hình của những ngọn núi mà người dân có cách gọi tên khác nhau, một trong số đó có núi Yên Lộ - nơi có chùa và nghè Yên Lộ.
Trải qua thời gian, Yên Lộ vẫn mang vẻ đẹp của làng quê Việt truyền thống. Đứng từ trên núi Yên Lộ nhìn xuống, thu vào tầm mắt là đồng ruộng xanh thẫm, cây cối tốt tươi, nhà cửa khang trang, điểm tô cho phong cảnh là những ngọn núi sót nhấp nhô... Tất cả hài hòa, tạo nên một “bức tranh” làng quê yên bình và “đắt giá”. Dừng nghỉ chân trên núi Yên Lộ, chúng tôi được nghe kể và hiểu hơn về vùng đất cổ bên dòng sông Chu.
Trong lịch sử, cùng với quá trình nỗ lực mưu sinh, đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt để lập dựng, phát triển xóm làng, những thế hệ người dân Yên Lộ trân trọng và không ngừng tạo dựng, vun đắp các giá trị văn hóa truyền thống. Trên đất Yên Lộ khi xưa, có sự hiện hữu của nhiều công trình kiến trúc văn hóa - gắn liền với đời sống tín ngưỡng tâm linh của người dân địa phương, như đình, chùa, nghè.
Bên trong Di tích cách mạng Nhà lưu niệm ông Lê Chủ làng Yên Lộ.
Theo lưu truyền tại địa phương, đình Yên Lộ khởi dựng từ thời Lê. Buổi ban đầu được lợp tranh tre, nứa lá. Đến thời Nguyễn, người làng đã cùng nhau đóng góp kinh phí tu sửa ngôi đình khang trang, vững chắc, mái lợp ngói. Đình Yên Lộ mang vẻ đẹp kiến trúc thời Nguyễn, nổi bật với các mảng chạm khắc gỗ long, ly, quy, phượng.
Cách đình Yên Lộ không xa là chùa Yên Lộ. Chùa tọa lạc trên sườn núi đá, được bao bọc bởi cây cối xanh mát quanh năm. Đến nay, chưa có khẳng định chắc chắn về thời gian khởi dựng ngôi cổ tự. Song cũng như đình làng, chùa Yên Lộ khi xưa vốn đơn sơ, đến đầu thế kỷ XX thì được trùng tu vững chắc với kiến trúc vì kèo theo lối truyền thống.
Thờ Tản Viên sơn thần, nghè nằm dưới chân núi được xem là công trình kiến trúc được khởi dựng sớm nhất ở Yên Lộ. Người dân địa phương tin rằng, vào thời Lý, nghè Yên Lộ đã được khởi dựng. Cùng với đình, chùa thì nghè Yên Lộ là niềm tự hào, “điểm tựa” tâm linh cho người dân địa phương.
Trải qua nhiều thế kỷ, qua những thăng trầm lịch sử, chiến tranh tàn phá, các di tích gắn liền với đời sống tín ngưỡng - tâm linh của đất và người Yên Lộ đã bị hư hỏng, xuống cấp nhiều. Song với niềm tự hào và tấm lòng trân trọng giá trị văn hóa tiền nhân, những thế hệ người Yên Lộ và du khách xa gần đã cùng nhau chung sức, đồng lòng đóng góp kinh phí trùng tu, tôn tạo các di tích đình, chùa, nghè được khang trang.
Yên Lộ không chỉ là làng quê mang nhiều dấu ấn lịch sử, văn hóa, nơi đây còn được biết đến là vùng quê cách mạng. Người Yên Lộ vẫn luôn tự hào: Ở Yên Lộ, mỗi ngôi nhà, mỗi di tích đều “mang trong mình” những chuyện kể về cách mạng. Đầu thế kỷ XX, Yên Lộ được biết đến là một trong những làng có phong trào cách mạng sớm nhất ở tổng Phù Chẩn.
Và đồng chí Lê Chủ (tức Nguyễn Tiến Nhiệu) được biết đến là một trong những người con của đất làng Yên Lộ giác ngộ và hoạt động cách mạng từ rất sớm. Ông lớn lên trong giai đoạn phong trào yêu nước phát triển mạnh, đặc biệt trong tầng lớp trí thức, học sinh tiến bộ. Là người có học vấn, Lê Chủ đã sớm tiếp thu tư tưởng tiến bộ, hăng hái tham gia các hội đọc sách, báo, tuyên truyền Chủ nghĩa Mác-Lê nin. Năm 1928, đồng chí Lê Chủ được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Từ đây, ông cùng các đồng chí trong tổ chức đã tích cực thành lập và vận động người dân tham gia các hội, đoàn - thông qua đó tuyên truyền, khơi dậy lòng yêu nước trong mỗi người dân, vùng đất Yên Lộ trở thành một trong những căn cứ của phong trào cách mạng.
Trong suốt giai đoạn từ 1930-1945, làng Yên Lộ là nơi có hoạt động cách mạng sôi nổi - chỗ “đứng chân” đáng tin cậy của Đảng.
Năm 1937, tại đình làng Yên Lộ, đồng chí Ngô Ngọc Toản và Lê Chủ đã chủ trì cuộc họp bầu chọn những người có lòng yêu nước, yên dân để bảo vệ xóm làng, qua đó giác ngộ và lựa chọn người vào tổ chức. Năm 1939, tại đình làng Yên Lộ diễn ra nhiều cuộc họp, mít tinh đòi các quyền tự do dân chủ, chống sưu cao thuế nặng. Trong thời kỳ phản đế cứu quốc và thời kỳ Việt Minh khởi nghĩa, tại đình Yên Lộ đã diễn ra việc tập trung lực lượng, luyện tập quân sự của lực lượng tự vệ. Đình làng cũng là nơi ra mắt chính quyền Cách mạng và giải tán chính quyền tay sai.
Vùng đất Yên Lộ thanh bình.
Cũng như đình làng, trong những năm tiền khởi nghĩa, chùa Yên Lộ cũng là địa điểm trú ẩn và hoạt động bí mật của cán bộ cách mạng. Năm 1935-1936, tại chùa Yên Lộ đã diễn ra nhiều hội nghị quan trọng nhằm củng cố hoạt động, phát động phong trào. Khi các nơi bị kẻ địch truy lùng, ngôi cổ tự trở thành địa điểm gặp gỡ bí mật giữa các cán bộ cách mạng trong huyện và tỉnh. Với địa thế kín đáo, dễ thoát hiểm khi bị phát hiện, chùa Yên Lộ là một trong những điểm “dừng chân” của các chiến sĩ cách mạng tiền khởi nghĩa...
Về Yên Lộ, ghé thăm những di tích - địa điểm cách mạng trong lịch sử, kẻ hậu sinh lại được lắng nghe những câu chuyện về lịch sử, về tinh thần đấu tranh cách mạng hào hùng của đất và người nơi đây.
Chia tay Yên Lộ, tôi vẫn nhớ chia sẻ của cụ bà Hoàng Thị Cát, một bậc cao niên trong làng: Trong gia đình tôi, từ ông bà, bố và anh trai, chồng tôi đều là những người đã tận hiến cho cách mạng. Ở Yên Lộ, mỗi người dân chúng tôi đều hiểu rằng, Tổ quốc còn thì quê hương còn...
Bài và ảnh: Khánh Lộc
Nguồn Thanh Hóa : https://vhds.baothanhhoa.vn/tren-dat-yen-lo-38407.htm