Trị thủy cần ưu tiên tăng khả năng thoát lũ của hệ thống sông, kênh mương

Trị thủy cần ưu tiên tăng khả năng thoát lũ của hệ thống sông, kênh mương
7 giờ trướcBài gốc
Trong báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường gửi Thủ tướng Chính phủ, đã có nhiều “lỗ hổng” trong ứng phó với mưa lũ được chỉ ra như: Năng lực chống chịu của các công trình cơ sở hạ tầng; hệ thống đê điều, hồ chứa còn yếu kém, không đáp ứng được với tình huống thiên tai đặc biệt lớn, vượt lịch sử... Xung quanh những bất cập trong việc ứng phó với ngập lụt, phóng viên Báo Công an nhân dân đã có cuộc trao đổi với GS.TS Lê Văn Nghị, Giám đốc Phòng Thí nghiệm trọng điểm Quốc gia về động lực học sông biển, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam.
Phóng viên: Xin ông cho biết, nguyên nhân gây ra tình trạng ngập lụt có thể nói chưa từng thấy mấy chục năm nay ở nhiều tỉnh, thành miền Bắc vừa qua?
GS.TS Lê Văn Nghị.
GS.TS Lê Văn Nghị: Trận lũ do ảnh hưởng hai cơn bão số 10 và 11 vừa qua đã gây ngập lụt rất lớn, có thể được coi là nặng nề nhất trong hàng chục năm gần đây. Ngay như ở Hà Nội, trận mưa lớn do cơn bão số 10 ngày 30/9 đã gây ngập lụt hơn 100 điểm. Trên phạm vi cả nước, mức độ ngập lụt về số điểm, về diện tích và độ sâu thì đều vượt xa so với trận lũ lịch sử trước đó. Đối với tỉnh Thái Nguyên mưa do hoàn lưu bão số 11 làm ngập lụt hầu như toàn bộ khu vực trung tâm tỉnh với diện ngập và độ ngập sâu như vậy là mức lịch sử đối với một đô thị khu vực trung du.
Đầu tiên nói đến nguyên nhân gây ngập lụt thì yếu tố mưa lớn, mưa cường độ cao trên phạm vi rộng lớn vượt quá sức chịu đựng của hệ thống thoát nước mặt, vượt quá khả năng thoát lũ của sông ngòi, kênh mương là nguyên nhân hàng đầu trong đợt lũ vừa qua ở cả Hà Nội và Thái Nguyên, và các tỉnh, thành khác như Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Ninh. Thứ hai là khi đầu tư xây dựng mới khu đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp, hạ tầng giao thông chưa đánh giá tác động của việc xây dựng công trình đến gia tăng rủi ro thiên tai, gia tăng mực nước và đảm bảo an toàn trước thiên tai (điều này được qui định trong Luật Phòng chống thiên tai năm 2013&2020). Thứ ba là không lường trước được mức độ mưa quá lớn, nên bị động trong công tác ứng phó với ngập lụt trong khu đô thị trung tâm và ứng phó với tình huống lũ đặc biệt lớn trên sông Cầu. Thứ tư là chủ quan, bất ngờ, lúng túng của cộng đồng (người dân, doanh nghiệp) khi ứng phó với ngập lụt khu vực đô thị, cũng như ứng phó với tình huống lũ lớn trên sông cầu.
Ngoài nguyên nhân mưa lũ, ngập lụt do mưa đã nói ở trên thì còn có nguyên nhân khác gây ngập lụt trầm trọng hơn là phát triển hạ tầng và đô thị quá nhanh, hệ thống tiêu, thoát nước chưa theo kịp tốc độ phát triển, thể hiện ở hai điểm sau: Thứ nhất là việc san lấp ao hồ sẽ lấy đi không gian trữ nước của khu đô thị, làm cho toàn bộ lượng mưa sẽ tạo thành dòng chảy tập trung về các trục thoát nước, điều này gây quá tải, gây ngập lụt cục bộ cho từng khu vực. Thứ hai quy hoạch đô thị và đô thị hóa chưa hợp lý sẽ làm gia tăng khả năng tập trung dòng chảy mặt do mưa đến các điểm thoát nước, các điểm thu nước không đáp ứng khả năng thoát, gây ùn ứ, ngập lụt cục bộ. Thứ 3 là không đồng bộ trong quy hoạch tiêu thoát lũ của ngành Nông nghiệp (thủy lợi) và thoát nước đô thị của ngành Xây dựng, ở đây có sự phân vùng dù nước cuối cùng cũng chảy ra biển lớn.
Phóng viên: Ông đánh giá như thế nào về tình trạng ngập lụt ở Hà Nội do ảnh hưởng của bão số 10 và 11?
GS.TS Lê Văn Nghị: Riêng ở Hà Nội, so với trận mưa lụt năm 2008 thì diện tích trữ nước mặt của Hà Nội đã giảm đi đáng kể do tốc độ san lấp đồng ruộng, ao hồ, vũng đất trũng và đô thị hóa quá nhanh. Hệ thống thoát nước, tiêu úng được đầu tư chưa đồng bộ, thiếu tổng thể nên không đáp ứng yêu cầu tiêu thoát nước. Khả năng tiêu nước của kênh, mương trục không đảm bảo, trước là kênh tiêu nông nghiệp với hệ số tiêu rất nhỏ, nay thành trục tiêu đô thị có hệ số tiêu lớn hơn hàng chục lần, nhưng lòng dẫn lại bị lấn chiếm, thu hẹp, như sông Nhuệ, sông Pheo… không được quan tâm nâng cấp, mở rộng và quá trình cống hóa các kênh dẫn đến không đảm bảo tiêu, làm úng ngập các đô thị. Khả năng thoát nước từ các cống, tuyến mương nhánh ra sông chính không đảm bảo, bị ách tắc gây ngập lụt trầm trọng hơn, gây dâng nước lên tạo úng ngập mặt đường. Đô thị mất hoàn toàn chức năng làm chậm dòng chảy, thấm do bị bê tông hóa toàn bộ, vỉa hè, quảng trường, công trình công cộng…
Chúng ta thấy ở Hà Nội, nhiều khu đô thị, khu dân cư được xây dựng mới trên các khu vực trước đây là đất nông nghiệp, cho dù hệ thống thoát nước đô thị được thiết kế hoàn chỉnh, đồng bộ, nhưng ngoài ranh giới khu đô thị vẫn là đất nông nghiệp, thoát nước đô thị được đấu nối với hệ thống mương tiêu nước nông nghiệp, điều này làm tăng lưu lượng của kênh mương vượt xa thiết kế ban đầu là tiêu cho nông nghiệp, chính là nguyên nhân gây ngập lụt đô thị. Hệ thống kênh tiêu nước của Hà Nội quá bé so với yêu cầu trong môi trường đô thị, không đáp ứng công suất của các trạm bơm tiêu đầu mối như Yên Sở, Yên Nghĩa, qui hoạch tiêu thoát nước không theo kịp tốc độ đô thị hóa.
Phóng viên: Trong trận mưa lụt lịch sử này, Thái Nguyên là địa phương chịu nhiều thiệt hại nặng nề nhất. Ông có thể phân tích sâu thêm những tác nhân dẫn đến tình trạng ngập lụt ở địa phương này?
GS.TS Lê Văn Nghị: Khu vực trung tâm tỉnh Thái Nguyên bị ngập lụt do kết hợp nhiều yếu tố. Về địa hình ở đây có địa hình bán sơn địa, kết hợp giữa đồi với đồng bằng, phía bên trung tâm hành chính là vùng bằng phẳng, cao và có tuyến đê Hữu sông Cầu bảo vệ và có khả năng tiêu thoát rất tốt với các trận mưa nhỏ, mức đảm bảo lũ cho Thái nguyên chỉ 2%, với trận mưa lớn nhất có chu kỳ lập lại 50 năm, nhưng trận mưa vừa rồi có chu kỳ lập lại đến 700 năm thì việc gậy ngập lụt là điều hiển nhiên. Bên cạnh đó lưu vực sông Cầu không có hồ chứa lớn để cắt giảm lũ, nếu xảy ra lũ lớn, lũ đặc biệt lớn như tháng 9/2024 và tháng 10/2025 đó là các trận lũ vượt tần suất. Hệ thống thoát nước của khu trung tâm Thái Nguyên cũng tương tự Hà Nội, đã được đầu tư từ lâu, diện tích mặt nước, ao hồ cũng suy giảm theo thời gian do tốc độ đô thị hóa. Mưa lớn, cường độ cao trong thời gian ngắn là lý do chính, mặt khác đợt mưa lũ do bão số 11 gây ra khi toàn bộ lưu vực sông Cầu ở thượng nguồn đã đạt trạng thái bão hòa do mưa của hoàn lưu bão số 10, làm lưu vực không có khả năng thấm-trữ nước-làm chậm dòng chảy nữa, cho nên mưa xuống là hình thành dòng chảy ngay, đây có thể là nguyên nhân chính làm lũ lên rất nhanh. Một nguyên nhân nữa là lòng dẫn sông Cầu đoạn sau TP Thái nguyên trước đây có khả năng thoát lũ chậm bởi uốn khúc và thác ghềnh.
Lũ sông Cầu vượt đỉnh lịch sử, khiến nhiều phường TP Thái Nguyên cũ bị ngập
Phóng viên: Theo ông, với tình trạng biến đối khí hậu, mưa lũ cực đoan như hiện nay thì cần làm gì để nâng cao năng lực chống lũ, ngập cho các khu vực trung du miền núi phía Bắc?
GS.TS Lê Văn Nghị: Công tác trị thủy các dòng sông ở Việt Nam đã có lịch sử hàng ngàn năm, việc phòng ngừa lũ lụt trên các dòng sông đã được nghiên cứu, tính toán qua nhiều thời kỳ. Trước đây là xây dựng các hồ chứa lớn, có dung tích phòng lũ lớn được xây dựng ở thượng nguồn để cắt, giảm lũ cho hạ du, như các hồ chứa thượng nguồn sông Hồng … Đến nay, các hồ chứa lớn cơ bản đã được xây dựng trên các dòng sông, đi vào hoạt động ổn định. Vấn đề trị thủy trong thời gian tới cần được ưu tiên cho công tác: Tiêu thoát nước một cách đồng bộ, đặc biệt là tăng khả năng thoát lũ của hệ thống sông, hệ thống kênh trục; khống chế và từng bước kiểm soát tỷ phân lưu qua các sông nối các lưu vực sông như sông Đuống, sông Đào, sông Luộc trên hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình; tái lập lại và hoàn thiện hành lang thoát lũ; vận hành các hồ chứa lớn để cắt giảm lũ; nâng cao năng lực lập kế hoạch, diễn tập ứng phó với mọi tình huống cho các cấp chính quyền và cộng đồng. Song song với đó là nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo sớm mưa lớn, cần đảm bảo độ chính xác về không gian, thời gian và phát triển các hệ thống cảnh báo sớm lũ, ngập lụt cho các lưu vực sông, các khu đô thị nhằm cung cấp thông tin cảnh báo, chỉ dẫn ứng phó trong tình huống khẩn cấp đến người dân.
Khi lập quy hoạch, phát triển đô thị, chúng ta cần phải đồng bộ về các công trình hạ tầng như: Giao thông, xây dựng, thoát nước, cảnh quan, sinh thái, môi trường… hài hòa, hợp lý. Cần có các không gian chứa nước, không gian thoát lũ. Thứ hai là đảm bảo an toàn trước thiên tai, ở đây là bão, lũ, ngập lụt, sạt lở đất và cả lũ quét với các đô thị miền núi. Các công trình trước khi được phê duyệt thiết kế cơ sở, thiết kế kỹ thuật phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt đánh giá tác động để không làm gia tăng rủi ro thiên tai khi công trình đi vào hoạt động theo đúng qui định của Luật Phòng chống thiên tai hiện hành. Ngoài ra, các cơ quan chuyên môn, chính quyền địa phương cần cải thiện để giúp người dân chủ động hơn trước bão lũ là các thông tin cảnh báo sớm được cung cấp liên tục, thông tin chỉ dẫn cụ thể, chi tiết đến mọi người dân trong phạm vi bởi ảnh hưởng thiên tai, có thể thông qua các phương tiện truyền tin hiện có, mạng xã hội…
Phóng viên: Xin cảm ơn ông!
Ngọc Yến (thực hiện)
Nguồn CAND : https://cand.com.vn/thoi-su/tri-thuy-can-uu-tien-tang-kha-nang-thoat-lu-cua-he-thong-song-kenh-muong-i787493/