Đưa AI vào trường học giúp học sinh hiểu và biết cách sử dụng công cụ này an toàn, hình thành tư duy sáng tạo. Ảnh: T.X
Thí điểm trước khi triển khai rộng rãi
Theo Khung nội dung thí điểm giáo dục trí tuệ nhân tạo (AI) cho học sinh phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) vừa ban hành, ở cấp tiểu học, học sinh chủ yếu trải nghiệm các ứng dụng AI đơn giản, trực quan để hình thành khái niệm ban đầu và nhận biết vai trò của Al trong cuộc sống. Ở cấp THCS, học sinh học cách sử dụng các công cụ AI để tạo ra sản phẩm số, giải quyết các vấn đề học tập. Ở cấp THPT, học sinh được khuyến khích khám phá, thiết kế và cải tiến các công cụ AI đơn giản thông qua các dự án khoa học.
Bên cạnh nội dung giáo dục cốt lõi, học sinh có thể chọn các chuyên đề học tập tự chọn để tăng cường kỹ năng thực hành, tìm hiểu sâu hơn về các lĩnh vực ứng dụng của AI hoặc các kĩ thuật lập trình và phát triển hệ thống AI.
Căn cứ vào khung này, điều kiện thực tiễn về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, nhu cầu và năng lực của học sinh, các cơ sở giáo dục chủ động lựa chọn một hoặc kết hợp ba hình thức tổ chức: thực hiện lồng ghép trong các môn học, hoạt động giáo dục thuộc Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT); thực hiện theo chuyên đề học tập lựa chọn hoặc chủ đề độc lập; tổ chức dạy học tăng cường, câu lạc bộ, ngoại khóa.
Một tiết học trải nghiệm ứng dụng công nghệ tạo ra sản phẩm số của học sinh Trường THCS Lý Thái Tổ (Hà Nội). Ảnh: NTCC
Trong đó, hình thức lồng ghép trong các môn học, hoạt động giáo dục thuộc Chương trình GDPT được xem là hình thức triển khai ưu tiên nhằm đảm bảo tính phổ cập, không gây quá tải chương trình; bảo đảm sự trung thực, chuẩn mực khoa học trong quá trình khai thác, sử dụng AI.
Dự kiến lộ trình thực hiện của Bộ GDĐT bao gồm: từ tháng 12/2025 - 5/2026 sẽ tiến hành thực hiện thí điểm tại một số cơ sở giáo dục được lựa chọn và đánh giá thường xuyên; tháng 6/2026 sẽ tổ chức tổng kết, đánh giá kết quả thí điểm, hoàn thiện Khung nội dung AI để đề xuất triển khai rộng rãi trong các năm học tiếp theo.
Mục tiêu phù hợp với từng cấp học, từng đối tượng
Từ góc nhìn khoa học, ông Hồ Đức Thắng - Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số Quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho rằng, đưa AI vào trường học không phải với mục tiêu đào tạo “kỹ sư AI nhí”, mà là giúp học sinh hiểu AI là gì, biết cách sử dụng công cụ này an toàn, có trách nhiệm và hình thành tư duy sáng tạo khi tương tác với công nghệ.
Vì vậy, ông Thắng đề xuất lồng ghép khoảng 5-10 giờ học mỗi năm, tích hợp vào các môn học sẵn có và hoạt động trải nghiệm, như cách Singapore áp dụng. Ông Thắng cũng nhấn mạnh về việc phải đảm bảo đầy đủ hạ tầng, như vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn cũng cần có Internet cơ bản để phổ cập AI trong trường học một cách bình đẳng ngay từ cấp tiểu học trên toàn quốc.
Về cách làm, ông Thắng chỉ ra, cần phải lấy giáo viên làm trung tâm, công cụ an toàn, từng bước vững chắc nên việc triển khai thí điểm trước khi nhân rộng trong toàn ngành là bước đi phù hợp trong bối cảnh hiện nay.
Từ kinh nghiệm của Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong (TPHCM), ngôi trường đầu tiên tại TPHCM đào tạo về AI cho học sinh, đến nay được 7 năm cho thấy khó khăn lớn nhất là thiếu giáo viên được đào tạo chuyên sâu về AI. Trường đã mời chuyên gia và kỹ sư AI giảng dạy, đồng thời khuyến khích giáo viên tự học, nghiên cứu và theo học cao học ngành AI. Về chương trình, trường điều chỉnh thành mô hình ba cấp độ gồm trang bị nền tảng công nghệ AI, lập trình cơ bản sau đó học sinh được nâng cao kiến thức và cuối cùng là dành cho học sinh định hướng theo ngành AI ở bậc đại học. Như vậy, việc dạy sẽ đúng và trúng đối tượng, phù hợp với mong muốn của từng học sinh và gia đình nên sẽ không gây quá tải.
Thực tế, tại nhiều trường học trên cả nước, giáo viên đã chủ động đưa AI vào giảng dạy, hướng dẫn học sinh cách ứng dụng vào việc học. Thầy Giáp Văn Cường (Trường Tiểu học Thanh Hải số 1, Bắc Ninh) chia sẻ, ngày nay trong khi phụ huynh lo lắng khi con dùng AI thì học sinh cũng gặp vấn đề trong tự học vì lo lắng, thiếu tự tin; còn giáo viên thì quá tải, thiếu hụt thời gian để phản hồi, chữa bài… Trước thực trạng này, thầy Cường đã nghiên cứu và đưa ra giải pháp công nghệ AI, cụ thể là hệ sinh thái trợ lý “Gia sư Hita và Tòa soạn Hita” hỗ trợ dạy học ở tiểu học. Nhờ sáng kiến này, học sinh có thể ứng dụng AI trong học tập với nguồn dữ liệu sách giáo khoa, tài liệu được kiểm duyệt. Các nội dung không phù hợp sẽ bị chặn từ sớm. Với giáo viên, đây là công cụ hỗ trợ dạy học hiệu quả giúp học sinh từ đó hào hứng, chủ động ôn tập tại nhà.
Thầy giáo Nguyễn Bá Hùng (Trường THCS Lê Ngọc Hân, Hà Nội) chia sẻ, đã hướng dẫn học sinh ứng dụng AI để giải quyết vấn đề môi trường thực tế. Dự án AI xanh đã được triển khai trong 4 tuần. Trong đó, tuần 1 học sinh xác định vấn đề môi trường cụ thể của địa phương và sử dụng công cụ AI để đặt câu hỏi, phân tích bối cảnh, tìm hiểu các bên liên quan… Tuần 2, học sinh nghiên cứu và phân tích từ dữ liệu thực tế thu thập được với sự hỗ trợ của công cụ AI phân tích. Tuần 3 là sáng tạo giải pháp và tuần 4 là bảo vệ và phản biện. Kết quả, 100% học sinh tham gia dự án biết cách sử dụng AI có trách nhiệm để tạo ra sản phẩm hình ảnh, video, nội dung… Phần lớn học sinh cảm thấy gắn kết hơn với vấn đề môi trường tại địa phương. Bên cạnh đó, giúp phát triển năng lực số và tư duy phản biện.
“Khung sườn dự án 4 tuần này có thể dễ dàng điều chỉnh và áp dụng cho các môn học hoặc vấn đề xã hội khác cũng như áp dụng ở các cấp học khác nhau với chi phí thấp, chủ yếu dựa trên các công cụ AI phiên bản miễn phí và thiết bị điện thoại, máy tính có sẵn của nhà trường” – thầy Hùng nhận định về tính bền vững của dự án.
Chủ động và có trách nhiệm
Tại Diễn đàn quốc gia về AI trong giáo dục mới đây, Thứ trưởng Bộ GDĐT Phạm Ngọc Thưởng cho biết: Chúng ta nên sử dụng AI một cách chủ động, độc lập và thông minh, không lệ thuộc và sử dụng một cách có trách nhiệm.
Thực tế, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra phần lớn học sinh hiện đã có hiểu biết về AI nhưng trong đó chỉ một phần nhỏ các em ứng dụng AI hiệu quả. Học sinh đang thiếu kiến thức và kỹ năng về AI; thiếu trang thiết bị, công nghệ; thiếu hướng dẫn từ giáo viên… Vì vậy, việc Bộ GDĐT chủ động triển khai đưa AI vào trường phổ thông là phù hợp trong xu hướng hiện nay nhưng để triển khai an toàn và hiệu quả, cần sớm ban hành bộ quy tắc ứng xử với AI trong môi trường giáo dục, quy định rõ những nguyên tắc về đạo đức, trách nhiệm, tính minh bạch và an toàn khi sử dụng AI trong dạy và học. Song song với đó là việc xây dựng khung năng lực số cho giáo viên và học sinh, trong đó nhấn mạnh kỹ năng sử dụng AI đúng cách, có chọn lọc, biết kiểm chứng thông tin, không lạm dụng và không vi phạm các quy định về học thuật. Đây sẽ là cơ sở quan trọng để AI trở thành công cụ hỗ trợ hiệu quả cho đổi mới giáo dục, thay vì tạo ra những hệ lụy khó kiểm soát.
PGS.TS Nguyễn Chí Thành - Trưởng khoa Sư phạm, Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội: Cần sử dụng AI có trách nhiệm và có đạo đức
Tại Việt Nam, có khoảng 15% trường học tại các thành phố lớn đã triển khai ứng dụng AI trong giáo dục, riêng Hà Nội khoảng 25% và TPHCM khoảng 30%. Đáng chú ý, 60% giáo viên chưa tham gia khóa bồi dưỡng về AI. Các môn học ứng dụng AI phổ biến nhất là toán, tiếng Anh, khoa học và tin học.
Vì vậy, khi đưa AI là một chương trình mới vào trong nhà trường, đặc biệt là đối với giáo dục phổ thông và đặc biệt hơn nữa là đối với học sinh đầu cấp cần phải rất cẩn trọng. Hiện Bộ GDĐT đã có Khung nội dung thí điểm giáo dục AI cho học sinh phổ thông và dự kiến triển khai thí điểm ngay từ học kỳ 2 của năm học 2025 - 2026 sẽ triển khai ở một số trường.
Một nguyên tắc quan trọng khi triển khai đó là vấn đề an toàn và đạo đức AI. Bộ GDĐT đã ban hành Thông tư số 02/2025/TT-BGDĐT quy định Khung năng lực số cho người học, có hiệu lực thi hành từ ngày 11/3/2025 trong đó có đề cập đến miền năng lực về AI và nhấn mạnh về đạo đức, an toàn và trách nhiệm trên môi trường số. Tôi cho rằng cần nhấn mạnh điều này để việc sử dụng AI một cách có trách nhiệm, đạo đức và đảm bảo an toàn.
Bên cạnh đó, cần chú trọng sự cân bằng về tương tác, đặc biệt là đối với học sinh tiểu học, khoảng 20-30% là những hoạt động trên môi trường số về AI nhưng còn lại phải là hoạt động trực tiếp để học sinh không chỉ sống trong không gian ảo mà quên mất đời sống thực như lo ngại của nhiều người hiện nay.
Thu Hương