Triển khai Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân: Tháo nút thắt thủ tục hành chính

Triển khai Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân: Tháo nút thắt thủ tục hành chính
15 giờ trướcBài gốc
“Bơi” trong thủ tục
Tại cuộc Tọa đàm với cộng đồng doanh nghiệp để triển khai hiệu quả Nghị quyết 68-NQ/TW được tổ chức mới đây, bà Mai Kiều Liên, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần sữa Việt Nam (Vinamilk) cho rằng, doanh nghiệp không cần kiến nghị mới, vấn đề là chúng ta có thực hiện đầy đủ những gì đã đề ra hay không. Doanh nghiệp chỉ mong được hoạt động trong môi trường thủ tục rõ ràng, nhất quán, có thời hạn xử lý cụ thể, không bị “treo” vô thời hạn ở các cấp chính quyền.
Nhân viên kiểm soát sản lượng tại Nhà máy sữa Vinamilk tại huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Ảnh: Hoàng Hùng
Từ kinh nghiệm vận hành chuỗi hệ thống nhà máy sản xuất quy mô lớn, đề xuất cơ chế phản hồi hành chính theo mô hình “48-7” của bà Mai Kiều Liên được nhiều doanh nghiệp đồng tình. Mô hình “48-7” được hiểu là: cấp địa phương phản hồi trong vòng 48 giờ; nếu chưa xử lý được thì chuyển cấp cao hơn và trả lời trong 7 ngày. Việc này giúp doanh nghiệp không bị lỡ cơ hội, đồng thời tạo áp lực trách nhiệm lên cơ quan thực thi.
TS Cấn Văn Lực, thành viên của Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng, củng cố quan điểm này bằng dẫn chứng: hàng triệu hộ kinh doanh cá thể đang đóng góp từ 23%-25% GDP nhưng vẫn bị “bỏ quên” trong cơ chế hỗ trợ. “Nếu không cải cách thể chế mạnh mẽ, đặc biệt là Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Doanh nghiệp và Luật Phá sản thì khu vực năng động này sẽ mãi chỉ là nền kinh tế phi chính thức”, TS Cấn Văn Lực nhấn mạnh.
Ông cũng lưu ý đến tình trạng một doanh nghiệp triển khai dự án có thể phải cùng lúc tuân thủ các quy định khác biệt, thậm chí trái ngược, từ Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Đất đai và hàng chục thông tư hướng dẫn khác. Do vậy, cần có một cơ chế rà soát định kỳ các văn bản quy phạm pháp luật có tác động lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh, có sự tham gia độc lập và thực chất của cộng đồng doanh nghiệp, các hiệp hội ngành nghề và giới chuyên gia. Cùng với đó, việc áp dụng đánh giá tác động chính sách (RIA) cần được thực hiện nghiêm túc ngay từ giai đoạn dự thảo, nhằm tránh tình trạng chính sách được ban hành rồi sửa đổi liên tục, gây lãng phí nguồn lực và mất niềm tin từ thị trường.
Ở lĩnh vực xây dựng, ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu Việt Nam, nêu thực tế nhiều doanh nghiệp mất từ 18-24 tháng chỉ để hoàn tất thủ tục đầu tư một dự án nhà ở. “Chúng tôi không phản đối thanh tra, nhưng cần một cơ chế kiểm soát gọn gàng, không chồng chéo. Phải có đầu mối rõ ràng ở mỗi bộ ngành chịu trách nhiệm xử lý thủ tục, không để doanh nghiệp phải chạy lòng vòng”, ông Nguyễn Quốc Hiệp đề xuất.
Thực tế cho thấy thủ tục hành chính không chỉ là công cụ quản lý mà còn là một “tấm gương” phản chiếu mức độ thân thiện của môi trường đầu tư. Một hệ thống hành chính minh bạch, vận hành hiệu quả sẽ không chỉ tiết kiệm chi phí mà còn khơi dậy tinh thần đổi mới trong cộng đồng doanh nghiệp. Đây là điều kiện tiên quyết để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia - một tiêu chí ngày càng được quốc tế đánh giá cao trong xếp hạng môi trường đầu tư.
Chính sách kiến tạo và dẫn dắt
Nhiều doanh nghiệp còn gặp khó vì không được tham gia vào các dự án công, dù có đủ năng lực. Ông Trần Đình Long, Chủ tịch Tập đoàn Hòa Phát, thẳng thắn nói: “Chúng tôi làm được thép, vật tư, xây lắp… nhưng khi đấu thầu nếu vẫn để nhà thầu nước ngoài trúng hết thì sản xuất trong nước lấy gì sống?”. Theo ông Trần Đình Long, trong các nghị quyết và văn bản đấu thầu cần quy định rõ ràng tỷ lệ ưu tiên sản phẩm trong nước, nếu đạt chuẩn; không thể chỉ nói ưu tiên mà không có con số cụ thể. Doanh nghiệp Việt không thiếu năng lực, chỉ thiếu cơ chế. Nếu không thiết kế chính sách bảo vệ sản xuất nội địa đúng cách, Việt Nam có thể rơi vào vòng luẩn quẩn: công nghiệp yếu, nhập siêu cao, phụ thuộc công nghệ và lao động giá rẻ.
Trao đổi với PV Báo SGGP, ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM, nhìn nhận, doanh nghiệp nhỏ và vừa không phải không cố gắng mà là không có đủ cơ chế để bắt kịp các “luật chơi mới toàn cầu” như chi phí tuân thủ các quy chuẩn môi trường, kiểm định, kê khai... tăng mạnh trong khi họ không đủ năng lực tài chính để thích ứng. Hàng loạt doanh nghiệp nhỏ và vừa đang đứng ngoài quá trình chuyển đổi số và xanh do thiếu nguồn lực tiếp cận công nghệ, vốn và kỹ năng. “Chính sách không thể “bơm tiền” đại trà, mà phải trúng, đúng và linh hoạt theo ngành nghề, quy mô doanh nghiệp”, ông Nguyễn Ngọc Hòa nhấn mạnh.
Cùng với đó, ông Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, cho rằng: “Nếu đã xác định doanh nghiệp tư nhân là động lực phát triển thì phải có một chương trình cải cách thể chế quốc gia, đặt doanh nghiệp làm trung tâm. Chính sách không nên chỉ gỡ rối, mà cần kiến tạo và dẫn dắt”. Việc gia tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội xuất thân từ doanh nghiệp, các hiệp hội cần đi đôi với được trao thực quyền trong góp ý luật và phản biện chính sách. Không ai hiểu thị trường bằng người đang sống trong thị trường. Vì vậy, việc xây dựng một chỉ số theo dõi chất lượng cải cách thể chế hàng năm, do cộng đồng doanh nghiệp đánh giá độc lập là hết sức cần thiết.
ÁI VÂN
Nguồn SGGP : https://sggp.org.vn/trien-khai-nghi-quyet-68-nqtw-ve-phat-trien-kinh-te-tu-nhan-thao-nut-that-thu-tuc-hanh-chinh-post798338.html