Giữ “mạch máu” thông tin
Xe chỉ huy thông tin của của Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân được thiết lập tại xã Diên Điền, nơi bị nước lũ cô lập dài ngày nhất tại tỉnh Khánh Hòa. Ảnh: Xuân Triệu/TTXVN
Mưa lũ từ ngày 16 - 24/11, ở tỉnh Khánh Hòa, 488 trạm BTS của VNPT, Viettel, Mobifone tại các khu vực Bác Ái, Khánh Vĩnh, Diên Khánh, Tây Nha Trang, Ninh Hòa bị ngập nước, mất điện, mất liên lạc; nhiều tuyến cáp quang bị hư hỏng. Điều này khiến việc chỉ đạo điều hành từ cấp tỉnh đến cấp xã nhiều lúc bị gián đoạn. Người dân khi cần hỗ trợ cũng khó có thể kết nối được với lực lượng cứu hộ. Đây có lẽ là điểm “nghẽn” lớn nhất trong ứng phó với mưa lũ vừa qua.
Để kịp thời chỉ huy và triển khai phương án ứng cứu nhân dân khu vực bị nước lũ cô lập, các lực lượng quân đội đã chủ động thiết lập hệ thống thông tin liên lạc. Thượng tá Bùi Xuân Đức, Phó Tham mưu trưởng Lữ đoàn 100, Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải Quân là người trực tiếp chỉ huy công tác cứu hộ tại tâm lũ xã Diên Điền (tỉnh Khánh Hòa) - nơi có hơn 9600 hộ với 35.792 nhân khẩu bị cô lập hoàn toàn trong lũ.
Thượng tá Bùi Xuân Đức chia sẻ kinh nghiệm, Lữ đoàn xây dựng phương án tác chiến với đầy đủ phương tiện, ưu tiên nhất là thiết bị liên lạc. Đơn vị đã thiết lập trạm thông tin liên lạc bằng sóng ngắn tới tất cả điểm cứu hộ để tiếp nhận và chỉ huy cứu hộ. Trong điều kiện mưa lũ, người dân mất hoàn toàn liên lạc bằng sóng điện thoại di động. Cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn 101 phải tìm cách tiếp cận được ít nhất một người dân trong khu dân cư. Đây là phương án nhanh nhất, hiệu quả nhất để nắm được các vị trí cần ứng cứu vì chỉ có người dân ngay tại chỗ mới biết thông tin. Chính họ sẽ trở thành “giao liên” cho lực lượng cứu hộ...
Các chuyên gia khí tượng thủy văn cho rằng, bản tin dự báo cần được truyền đến “người sử dụng cuối cùng”. Thông tin cảnh báo đến được trực tiếp người dân ở vùng sâu, vùng xa thông qua đa nền tảng như: truyền hình, phát thanh, tin nhắn điện thoại, mạng xã hội... giúp người dân chủ động phòng tránh, di dời khi cần thiết. Bên cạnh đó, người dân cần được hướng dẫn cách đọc hiểu bản tin dự báo thời tiết và kỹ năng nhận biết dấu hiệu thiên tai tại chỗ...
Trạm thông tin liên lạc được thiết lập ngay tại xã Diên Điền, nơi bị nước lũ cô lập dài ngày nhất tại tỉnh Khánh Hòa, để phục vụ chỉ đạo điều hành và hỗ trợ người dân. Ảnh: Xuân Triệu/TTXVN
Giữa lúc mọi người đang gồng mình ứng phó với lũ, tin giả xuất hiện. Thông tin thất thiệt vỡ đập Am Chúa (tỉnh Khánh Hòa) hay những lời đồn đoán vô căn cứ có hàng trăm người chết vì lũ tại xã Hòa Thịnh (tỉnh Đắk Lắk) khiến không ít người hoang mang.
Hậu quả nặng nề hơn khi tin đồn vỡ đập lúc lũ đang lên trong đêm 20/11 khiến một số gia đình ở xã Hòa Mỹ (tỉnh Đắk Lắk) tháo chạy. Gia đình anh P.V.T và chị P.T.N.T cùng 3 người con nghe theo lời đồn đã bỏ nhà tìm nơi an toàn. Không may, dòng lũ xiết đã cướp đi sinh mạng của vợ chồng anh chị. Giờ đây, 3 đứa con thơ phải lâm cảnh mồ côi...
Tin giả trong thời điểm thiên tai không chỉ gây nhiễu loạn mà còn có thể là “kẻ giết người không dao”. Mỗi lượt chia sẻ thiếu kiểm chứng, mỗi lời đồn vô trách nhiệm gây hoang mang cho nhân dân; làm giảm đi hiệu quả của các chỉ đạo chính thức từ chính quyền địa phương. Vì thế, ngăn chặn tin giả chính là góp phần giữ vững “mạch máu” thông tin trong ứng phó với thiên tai.
Giải pháp công nghệ và dự báo
Mưa lũ trong những ngày qua khiến 39.517 lượt nhà bị ngập. Ảnh: Tuấn Anh/TTXVN
Biến đổi khí hậu cho thấy tính chất mưa lũ ngày càng cực đoan và vượt xa khả năng chống chịu của hệ thống hạ tầng hiện nay - vốn được thiết kế dựa trên các bộ số liệu khí tượng thủy văn của quá khứ. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với các cơ quan chuyên môn, phải đánh giá lại các tiêu chuẩn thiết kế hiện hành; cập nhật theo điều kiện khí hậu mới.
Quy hoạch phát triển của các địa phương nên chú trọng nâng cao khả năng thích ứng và chống chịu của hạ tầng đô thị, giao thông, đê kè và hệ thống thoát nước. Đặc biệt, các khu vực có mức độ rủi ro và tổn thương cao trước thiên tai cần được ưu tiên hạ tầng và công nghệ cảnh báo, dự báo nhằm chủ động giảm thiểu thiệt hại trong các tình huống mưa lũ cực đoan trong tương lai.
Ông Mai Văn Khiêm, Giám đốc Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia cho biết, chúng ta có thể dự báo khá tốt về phạm vi, khu vực và thời điểm xảy ra mưa lớn. Tuy nhiên, việc xác định lượng mưa chính xác tại từng điểm cục bộ, trong diện tích hẹp vài trăm mét đến vài kilômét vẫn còn hạn chế. Đây cũng là hạn chế chung cho các khu vực nhiệt đới gió mùa có địa hình chia cắt mạnh, rất khó để dự báo mưa lớn cục bộ trong phạm vi hẹp. Các cảnh báo sạt lở đất vẫn chủ yếu ở mức “nguy cơ cao tại các xã, phường” mà chưa thể định vị đến từng điểm sạt lở cụ thể (sườn đồi, tuyến đường nhỏ). Đây là hạn chế chung về mặt khoa học, công nghệ hiện nay trên thế giới. Mạng lưới trạm quan trắc tự động ở vùng thượng nguồn, vùng núi sâu (nơi khởi phát lũ quét) tại Nam Trung Bộ vẫn còn khá thưa, dẫn đến thiếu số liệu thực đo tức thời để cảnh báo lũ lên nhanh.
Theo ông Mai Văn Khiêm, để ứng phó tốt hơn với các điều kiện thời tiết cực đoan ngày càng gia tăng do biến đổi khí hậu cần lắp đặt bổ sung các trạm đo mưa tự động và trạm thủy văn chuyên dùng tại các vùng thượng lưu, vùng “lõm” sóng di động ở Nam Trung Bộ; đẩy mạnh hệ thống Radar thời tiết dải X tại các đô thị và vùng núi để quét mây, mưa chi tiết, phục vụ cảnh báo cực ngắn. Các địa phương nên thiết lập bản đồ ngập lụt vùng hạ du tỷ lệ lớn (1:2000 hoặc 1:5000) cho các khu vực dân cư trọng điểm…
Lực lượng chức năng sơ tán người dân ở Khánh Hòa đến nơi an toàn. Ảnh: Phan Sáu/TTXVN
Việc ứng phó với thiên tai không chỉ dựa vào kinh nghiệm truyền thống mà cần sự hỗ trợ mạnh mẽ của khoa học, công nghệ. Các địa phương có thể ứng dụng AI và dữ liệu lớn chuyên sâu để xây dựng các mô hình AI học máy dựa trên dữ liệu lũ lụt lịch sử của địa phương. Từ đây có thể để cảnh báo sớm ngập lụt đô thị (như tại khu vực Nha Trang, Phan Rang, tỉnh Khánh Hòa) và sạt lở đất theo thời gian thực…
Mưa lũ cực đoan và quá trình đô thị hóa làm giảm không gian thoát lũ, yêu cầu vận hành hồ bảo đảm an toàn hạ du ngày càng cấp thiết. Tuy nhiên, các địa phương trong cùng lưu vực lại chưa có quy chế phối hợp thống nhất với nhau. Mỗi hồ vận hành theo quy trình riêng, trong khi chưa có cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm điều phối chung khi xảy ra tình huống khẩn cấp. Bên cạnh đó, mức độ ứng dụng công nghệ trong quản lý an toàn đập còn thấp. Hầu hết 17 nội dung quản lý an toàn đập hiện được thực hiện thủ công, nhất là nhóm các hồ vừa và nhỏ do địa phương quản lý.
Theo Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), mục tiêu trong ứng dụng công nghệ hỗ trợ quản lý, vận hành đập, hồ chứa thủy lợi là bảo đảm tuyệt đối an toàn trong mọi tình huống, cắt giảm lũ hiệu quả cho hạ du. Bên cạnh đó, hồ chứa có thể tích nước tối đa để phục vụ sản xuất nông nghiệp, cấp nước sinh hoạt và các ngành kinh tế khác. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải chuyển đổi từ phương thức quản lý truyền thống sang quản lý thông minh dựa trên nền tảng số, xây dựng hệ thống hỗ trợ ra quyết định vận hành hồ chứa thủy lợi đáp ứng tính “kịp thời - chính xác - linh hoạt - chủ động”. Hệ thống hỗ trợ ra quyết định (DSS) trên nền tảng số có ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), internet Vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data) và thống nhất toàn ngành. Các dữ liệu này được tích hợp với hệ thống http://thuyloivietnam.vn hiện có và đảm bảo có khả năng mở rộng nâng cấp...
Cơn “đại hồng thủy” trút xuống các tỉnh miền Trung, nhất là Đắk Lắk và Khánh Hòa đã cho thấy những bài học kinh nghiệm trong ứng phó với thiên tai. Đó phải là sự chuẩn bị tổng thể, đồng bộ và hiện đại từ cơ sở hạ tầng, công nghệ, nhân lực đến vai trò chủ động của các cấp chính quyền và từng người dân.
Xuân Triệu - Đặng Tuấn - Phan Sáu - Tường Quân - Nguyễn Thành (TTXVN)