Một cơ sở lưu trữ LNG ở Trung Quốc. Ảnh Reuters
Gần hai thập kỷ trước, dầu mỏ từ châu Phi chiếm gần một phần ba tổng lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc. Tuy nhiên, con số này hiện đã giảm xuống khoảng 10%, và Trung Quốc đang tăng cường nhập khẩu dầu từ Trung Đông và Nga.
Theo Reuters, hiện nay, tại châu Phi, các doanh nghiệp Trung Quốc đang dần chuyển hướng đầu tư vào LNG – vừa để giúp Trung Quốc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, vừa để giảm sự phụ thuộc vào khí đốt từ Úc.
Đặc biệt, Mozambique đã nổi lên như một điểm nóng trong khai thác khí đốt tự nhiên toàn cầu sau khi phát hiện hơn 5 nghìn tỷ mét khối (176 nghìn tỷ feet khối) trữ lượng khí đốt ở bể Rovuma, ngoài khơi bờ biển phía đông bắc của quốc gia này.
Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNPC) sở hữu 20% cổ phần dự án LNG Rovuma trị giá 30 tỷ USD, dự kiến sẽ xây dựng một cơ sở ngoài khơi có công suất 18 triệu tấn mỗi năm. Đối tác chính trong dự án này, tập đoàn ExxonMobil của Mỹ, cho biết mặc dù dự án đã gặp phải sự chậm trễ về tài chính và bất ổn ngày càng gia tăng, nhưng dự án vẫn đang đi đúng hướng để đưa ra quyết định đầu tư cuối cùng vào năm tới.
CNPC cũng tham gia vào một dự án lớn khác tại Mozambique – dự án LNG nổi Coral – với sản lượng LNG đầu tiên được xuất khẩu vào năm 2022.
Kai Xue, một luật sư doanh nghiệp có trụ sở tại Bắc Kinh, người tư vấn về đầu tư trực tiếp nước ngoài và tài trợ xuyên biên giới, cho rằng dự án LNG Rovuma có thể sẽ là khởi đầu cho việc các công ty dầu khí Trung Quốc đa dạng hóa khí đốt trên toàn khu vực châu Phi, khi Trung Quốc tìm cách giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu từ Úc, trong bối cảnh các căng thẳng thương mại kéo dài và nhiều vấn đề khác.
Úc là nguồn cung LNG lớn nhất của Trung Quốc, chiếm khoảng một phần ba tổng lượng nhập khẩu, mặc dù Bắc Kinh cũng mua nhiên liệu này từ Qatar, Nga, Malaysia và Mỹ. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều khí đốt được Trung Quốc nhập khẩu từ châu Phi, đặc biệt là từ Nigeria, Mozambique, Algeria và Ai Cập.
Tại Congo-Brazzaville, nhà điều hành Trung Quốc Wing Wah hiện đang phát triển lô đất Banga Kayo trị giá 2 tỷ USD để thu gom khí đốt đã bị đốt cháy trước đó phục vụ cho nhu cầu nội địa, giai đoạn đầu tiên của dự án này nhắm đến mục tiêu sản xuất một triệu mét khối mỗi ngày.
Tại Algeria, Tập đoàn Dầu khí và Hóa chất Trung Quốc (Sinopec) và Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNNC) cũng vừa hoàn thành việc nâng vòm cho bồn chứa LNG 150.000 mét khối trong khuôn khổ một dự án mới của công ty dầu khí nhà nước Sonatrach.
David Shinn, chuyên gia về Trung Quốc – châu Phi và là giáo sư tại Trường Nghiên cứu Quốc tế Elliott của Đại học George Washington, cho biết dù Bắc Kinh giảm nhập khẩu dầu thô từ châu Phi, nhưng LNG lại là một câu chuyện khác.
"Trung Quốc xem châu Phi như một nguồn cung LNG và mở rộng đầu tư vào lĩnh vực này", ông nói.
Tuy nhiên, sự quan tâm ngày càng tăng của Bắc Kinh đối với ngành khí đốt của châu Phi không đồng nghĩa họ sẽ kết thúc hoàn toàn các khoản đầu tư của Trung Quốc vào ngành dầu mỏ trên lục địa này.
Cụ thể, Tập đoàn Dầu khí Ngoài khơi Trung Quốc (CNOOC) đang phát triển các mỏ dầu quan trọng trên khắp châu Phi, bao gồm mỏ dầu siêu sâu Egina của Nigeria và mỏ dầu Akpo West mới đi vào hoạt động.
Bên cạnh đó, tập đoàn Năng lượng United Energy đang chuẩn bị tăng gấp đôi sản lượng tại Ai Cập sau khi mua lại danh mục tài sản Western Desert của Apex International Energy, một công ty có trụ sở tại Mỹ, bổ sung hơn 22.000 thùng dầu mỗi ngày vào sản lượng của mình từ năm mỏ dầu. CNOOC cũng đang thúc đẩy dự án Hồ Albert tại Uganda và dự kiến sẽ khai thác sản lượng dầu đầu tiên từ mỏ Kingfisher trong năm nay.
Luke Patey, nhà nghiên cứu cấp cao tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Đan Mạch, cho biết Trung Quốc đang củng cố các khoản đầu tư vào các quốc gia giàu dầu mỏ ở châu Phi. "Địa chính trị là vấn đề quan trọng", Patey nói.
Ông cho biết, sức hút dầu thô giá rẻ từ Nga đã làm suy yếu vị thế của các nhà cung cấp châu Phi, nhưng bức tranh kinh tế dài hạn cũng chịu ảnh hưởng không kém.
“Các nhà khai thác dầu hiệu quả ở các quốc gia vùng Vịnh sẽ là những người cuối cùng còn đứng vững khi Trung Quốc tiến hành chuyển đổi năng lượng. Châu Phi sẽ cần phải tìm đến Ấn Độ như một khách hàng mới”, Patey nói.
Xue cũng lưu ý rằng kế hoạch chuyển hướng sang năng lượng tái tạo sẽ có tác động đến nhập khẩu dầu của Trung Quốc trong những thập kỷ tới.
“Tôi tin rằng Trung Quốc sẽ phụ thuộc ít hơn vào nhập khẩu dầu qua đường biển nói chung do sự gia tăng của các phương tiện và xe tải điện”, ông nói.
Điều này sẽ làm giảm nhu cầu về xăng và dầu diesel, ông nói, các khoản đầu tư chiến lược có thể sẽ được ưu tiên cho kế hoạch xây dựng thêm các đường ống dầu từ Nga và Trung Á, giúp vượt qua điểm tắc nghẽn eo biển Malacca.
Theo dự báo của CNPC, nhu cầu dầu mỏ tại Trung Quốc có thể giảm gần 70% vào năm 2060, điều này sẽ tác động đáng kể đến xuất khẩu dầu mỏ từ châu Phi sang Trung Quốc trong những thập kỷ tới.
Tuy nhiên, Xue lưu ý rằng sự thay đổi trong mô hình đầu tư sẽ diễn ra tương đối chậm. “Sẽ có sự chuyển dịch ổn định từ dầu mỏ nhập khẩu qua đường biển và nhu cầu dầu mỏ tại Trung Quốc cũng giảm dần trong dài hạn, nhưng những xu hướng này sẽ không làm thay đổi ngay lập tức các khoản đầu tư hiện tại của châu Phi”, ông nói. “Các dự án hiện tại vẫn phản ánh nhu cầu ngắn hạn trong việc đảm bảo các nguồn tài nguyên dầu khí”.
Shinn tại Đại học George Washington cho biết các khoản đầu tư gần đây vào các mỏ dầu ở châu Phi có thể là chiến lược phòng ngừa mới của Trung Quốc, nhưng cũng có thể chỉ đơn giản là nỗ lực của các công ty dầu khí Trung Quốc để tìm lợi nhuận tại châu Phi.
“Nhập khẩu dầu từ châu Phi, phần lớn từ Angola, dường như đã ổn định ở mức khoảng 10%. Điều này vẫn đủ để coi châu Phi là một nguồn cung chiến lược”, Shinn nói.
Padraig Carmody, một chuyên gia về Trung Quốc – châu Phi và là giáo sư tại Đại học Trinity College Dublin, cho biết các khoản đầu tư gần đây vào dầu khí có thể được xem là phản ứng trước bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Carmody cho rằng, sau khi Nga và Ukraine xung đột, Trung Quốc đã bắt đầu nhập khẩu nhiều dầu và khí đốt từ Nga hơn. Điều này đã khiến một số ngân hàng nhỏ của Trung Quốc tham gia tài trợ thương mại phải gánh chịu các biện pháp trừng phạt phụ từ Mỹ và châu Âu – một vấn đề hiện đang khiến các ngân hàng lớn ở Trung Quốc lo ngại.
Ông cũng chỉ ra rằng, sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump áp đặt thuế mới lên hàng hóa Trung Quốc, Bắc Kinh đã đáp trả bằng cách đánh thuế lên các mặt hàng nhập khẩu từ Mỹ, bao gồm cả dầu. Khi điều này khiến dầu mỏ từ Mỹ trở nên đắt đỏ, các thỏa thuận cung cấp mới cũng đang được ký kết tại châu Phi.
“Sau biến động giá hàng hóa năm 2014, an ninh năng lượng dễ đạt được mà không cần ‘khóa chặt thùng dầu ngay tại nguồn’. Nhưng khi bất ổn ngày càng gia tăng, các thỏa thuận cung cấp trực tiếp cho Trung Quốc sẽ giúp giảm thiểu rủi ro”, Carmody nói.
Anh Thư
Reuters