Ông Hoàng D. Quân, Chủ tịch Quỹ A+
Trung tâm tài chính quốc tế (IFC) là khái niệm không mới, được nhắc đến trong hơn 40 năm qua. Có thể kể tới 10 trung tâm tài chính nổi tiếng nhất thế giới hiện nay (xếp theo thứ tự) như New York, London, Singapore, Hồng Kông, San Francisco, Chicago, Los Angeles, Thượng Hải, Thâm Quyến và Frankfurt; hay 10 trung tâm ngân hàng dịch vụ nước ngoài (offshore banking) hàng đầu thế giới như Hồng Kông, Thụy Sĩ, Belize, Đức, Quần đảo Cayman, Singapore, Panama, Seychelles, Mauritius, Các tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE).
Khi đề cập tới câu chuyện thành lập trung tâm tài chính quốc tế tại TP.HCM và trung tâm tài chính khu vực tại Đà Nẵng của Việt Nam, chúng ta nên dành thời gian xem xét bài học kinh nghiệm từ các thị trường như Dubai, Hồng Kông và Singapore. Dubai (UAE) được xem là “ngôi sao đang lên” trên thị trường tài chính toàn cầu, trong khi Hồng Kông là trung tâm tài chính có lịch sử khá lâu, được từ đầu thập niên 1970. Singapore, với vị trí gần Việt Nam và có xuất phát điểm rất thấp có thể xem là trường hợp điển hình tuyệt vời.
Kinh nghiệm của Singapore
Singapore đã làm thế nào để trở thành trung tâm tài chính hàng đầu thế giới?
Trước tiên, để đo lường quy mô và sức hấp dẫn của trung tâm tài chính quốc tế, theo tôi, cần nhìn vào tổng tài sản quản lý (AUM), số lượng công ty quản lý tài sản (công ty quản lý quỹ) được cấp phép hoạt động và tổng tài sản các ngân hàng trong nước cũng như vốn hóa thị trường chứng khoán của quốc gia đó. Singapore đang chiếm vị thế là trung tâm tài chính lớn thứ ba toàn cầu, với tổng tài sản quản lý lên tới 5.400 tỷ USD; tổng tài sản ngân hàng là 2.500 tỷ USD; tổng vốn hóa thị trường chứng khoán là 634 tỷ USD.
Nhiều người cho rằng sự nổi bật của Singapore trên thị trường tài chính toàn cầu, vượt qua cả Hồng Kông, không phải nhờ những thay đổi trong chính sách hoặc quy định gần đây.
Nếu muốn xem xét một cách nghiêm túc về con đường đưa Singapore trở thành một trong những trung tâm tài chính hàng đầu thế giới, chúng ta phải quay lại với vị trí xuất phát của quốc gia này. Singapore là một quốc gia nhỏ bé, với rất ít tài nguyên, hơn 90% dân số không sở hữu bất động sản và họ thuộc nhiều nhóm dân tộc bản địa khác nhau. Người Ấn Độ, người Trung Quốc, người Mã Lai... là các nhóm chính.
Ngay từ năm 1968, các nhà lãnh đạo Singapore (đặc biệt là Thủ tướng Lý Quang Diệu) đã có tầm nhìn về một quốc gia thịnh vượng hơn, họ cho phép luồng vốn xuyên biên giới bằng cách để các ngân hàng nước ngoài hoạt động như một đơn vị ngân hàng nước ngoài tại Singapore (offshore banking), được gọi là Asian Currency Unit - đơn vị tiền tệ châu Á, còn được biết đến với cái tên “Thị trường đô-la châu Á” - Asian Dollar Market.
Bước đi thông minh thứ hai của Singapore là loại bỏ khấu lưu thuế đối với lãi suất trả cho người không cư trú. Hồng Kông không muốn đứng yên nhìn các nền kinh tế lân cận chiếm lĩnh thị trường đã làm theo và đạt được động lực lớn hơn sau năm 1978 khi chính quyền dỡ bỏ lệnh tạm ngừng cấp giấy phép ngân hàng mới. Dù hầu hết mọi người cho rằng Tokyo là một thị trường tài chính tiên tiến hơn nhưng thực tế, Nhật Bản chỉ thiết lập trung tâm tài chính vào năm 1986, với việc thành lập Thị trường Japan Offshore Market. Những thị trường đến sau “buổi tiệc” bao gồm Đài Loan (Trung Quốc) và Thái Lan.
Hiểu được bối cảnh lịch sử là rất quan trọng đối với sự phát triển mong muốn của Việt Nam về một trung tâm tài chính quốc tế.
Câu chuyện về Singapore không chỉ gói gọn trong việc mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài (offshore banking) và thị trường đô-la châu Á. Quá trình chuẩn bị để Singapore vươn lên trên thị trường tài chính toàn cầu đã bắt đầu từ năm 1968, như đã đề cập. Tôi tin rằng, 6 bước bãi bỏ quan trọng này đã định hình Singapore ngày nay:
Thứ nhất, tháng 9/1970, cho phép các ngân hàng nước ngoài hoạt động;
Thứ hai, tháng 7/1972, bãi bỏ hệ thống cartel trong việc cố định tỷ giá hối đoái;
Thứ ba, tháng 7/1973, thả nổi đồng Đô-la Singapore;
Thứ tư, tháng 7/1975, bãi bỏ hệ thống cartel về tỷ giá;
Thứ năm, tháng 6/1978, tự do hóa hoàn toàn kiểm soát ngoại hối;
Thứ năm, tháng 3/1987, mở cửa ngành môi giới chứng khoán cho các ngân hàng địa phương và tổ chức tài chính nước ngoài.
Để tóm lược sự thành công của Singapore trong vai trò là trung tâm tài chính quốc tế, hầu hết các nhà nghiên cứu thị trường đều đồng tình rằng, có ba trụ cột chính là: 1) Thị trường đô-la châu Á (Asian Dollar Market), 2) Thị trường ngoại hối vượt qua Tokyo và 3) Thành lập Sàn Giao dịch tiền tệ quốc tế Singapore (SIMEX).
SIMEX là thị trường phái sinh quốc tế thực sự của châu Á.
… và một số thị trường trong châu lục
Đương nhiên, còn có những thị trường khác như Sàn Giao dịch tương lai Sydney (SFE), Sở Giao dịch chứng khoán Tokyo (TSE), Sở Giao dịch chứng khoán Osaka (OSE) và Sở Giao dịch tương lai Hồng Kông (HKFE).
Đừng quên Hồng Kông. Hồng Kông từng là trung tâm tài chính lớn thứ ba trên thế giới, cho đến khi bị Singapore thay thế. Trung tâm Tài chính Quốc tế Hồng Kông có hơn 277.000 nhân lực trong lĩnh vực tài chính, chiếm 7,6% dân số. Các dịch vụ tài chính đóng góp hơn 28% GDP (2021) của nền kinh tế này. Ba phần tư trong số 100 tổ chức tài chính hàng đầu thế giới có hoạt động tại Hồng Kông. Hai phần ba đầu tư của Trung Quốc đều thông qua Hồng Kông. Hồng Kông có hơn 2.000 công ty quản lý tài sản (quản lý quỹ) với tổng tài sản quản lý (AUM) khoảng 4.500 tỷ USD. Thành công của Hồng Kông có thể được tóm tắt là vai trò cửa ngõ vào Trung Quốc cùng hệ thống quy định hiệu quả và minh bạch.
Có lẽ, Việt Nam nên nhìn Dubai như một ví dụ gần hơn với quy mô thị trường hiện tại của chúng ta và cũng có lịch sử gần 20 năm tương tự. Hãy cùng khám phá “ngôi sao đang lên” Dubai với tư cách là trung tâm tài chính, được thành lập như một đặc khu kinh tế rộng 110 ha vào năm 2004. Trung tâm Tài chính quốc tế Dubai (DIFC) hiện có thành tích 20 năm hoạt động cho thị trường Trung Đông, châu Phi và Nam Á, bao gồm 72 quốc gia với tổng GDP 8.000 tỷ USD.
Sứ mệnh của DIFC được thể hiện rõ ràng: “Phát triển trung tâm tài chính tiên tiến nhất thế giới, củng cố danh tiếng hiện có của Dubai như một điểm đến kinh doanh hàng đầu, định hình ngành tài chính trong khu vực MEASA và tạo giá trị cho các công ty bằng cách cung cấp môi trường tốt nhất để tăng trưởng nhanh chóng”. DIFC tập trung vào 5 trụ cột chính: đối tác tăng trưởng; chế độ đổi mới; đơn vị hỗ trợ kinh doanh; trung tâm hệ sinh thái; nhà đổi mới về quy định.
Thị trường tài chính Dubai (DFM - sàn chứng khoán Dubai) thành lập năm 2000, hiện có gần 200 công ty niêm yết với tổng vốn hóa thị trường là 187 tỷ USD. Trong khi đó, với sàn giao dịch chứng khoán chính của Việt Nam (HOSE) có khoảng 402 công ty niêm yết và vốn hóa thị trường đạt khoảng 215 tỷ USD.
Sự phát triển của Singapore như một trung tâm tài chính hàng đầu thế giới chủ yếu nhờ vào các sáng kiến chiến lược của chính phủ nước này. Các chính sách của Singapore không chỉ nhằm phản ứng với xu hướng tài chính hiện tại, mà còn dự đoán và tận dụng các cơ hội trong tương lai, như thuận lợi hóa đầu tư, chế độ thuế doanh nghiệp thấp, không có thuế thu nhập từ vốn (no capital gains tax)
Về phần Việt Nam, việc xây dựng Trung tâm tài chính Quốc tế TP.HCM là một bước đi táo bạo và chiến lược của Chính phủ. Đây rõ ràng là một hướng đi lớn cho Việt Nam khi chúng ta hội nhập với thế giới và khẳng định mình như một điểm đến chính thống về đầu tư và đổi mới trong tài chính, cùng nhiều lĩnh vực khác ở Đông Nam Á.
Bắt đầu muộn nhưng chúng ta có thể học hỏi từ những bài học thành công từ các thị trường châu Á như Tokyo, Bangkok, Hồng Kông, Singapore và Dubai.
Hoàng D. Quân