Tòa nhà Trung tâm tài chính quốc tế Saigon Marina. (Nguồn: Báo Nhân dân)
Trong thế giới toàn cầu hóa, thúc đẩy tri thức và kết nối mạng ngày nay, các trung tâm đô thị và thành phố đã trở nên quan trọng hơn khi trở thành các nút kết nối của sản xuất kinh tế, xã hội và văn hóa và là nơi diễn ra các phương thức quản trị kinh tế và lãnh thổ và thử nghiệm chính sách mới.
Nền kinh tế thị trường với quản trị kinh tế bao gồm việc hiểu rõ dòng tiền được hình thành từ các nguồn lực để quản lý sức khỏe tài chính và hoạch định chiến lược, bảo đảm doanh nghiệp hoặc tổ chức biết rõ dòng tiền đến từ đâu (dòng tiền vào) và đi đâu (dòng tiền ra) nhằm đáp ứng các khoản chi và đạt được các mục tiêu tài chính.
Các thành phần chính của quản trị kinh tế bao gồm dòng tiền từ hoạt động kinh doanh (hoạt động kinh doanh cốt lõi), đầu tư (tài sản dài hạn) và tài trợ (nợ và vốn chủ sở hữu). Phân tích các dòng tiền này giúp dự báo, quản lý thanh khoản và tối đa hóa năng suất.
Chính vì vậy, trong quản trị kinh tế, điểm nghẽn trong quản trị các nguồn lực nói chung là khi các nguồn lực không được quy đổi thành dòng tiền và được định giá minh bạch và bền vững trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia.
Dịch vụ tài chính - một phương tiện tăng trưởng
Ở Việt Nam, mặc dù nền kinh tế đang đứng thứ 33 trên thế giới về quy mô Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và lọt top 5 nước có quy mô kinh tế tăng trưởng nhiều nhất thế giới, các nhà kinh tế đã chỉ ra các điểm không bền vững của việc quản lý nguồn lực tài chính ở các ba chủ thể của nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất, Chính phủ đang tích cực thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW về chiến lược phát triển kinh tế tư nhân với mục tiêu đạt 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030 nhằm tái cơ cấu nguồn thu hiện nay khá bị động và còn phụ thuộc vào thuế xuất nhập khẩu, dầu thô và vốn hóa đất đai hoặc từ các nguồn ít bền vững khác như phát hành trái phiếu, tiền mới…
Bên cạnh đó, Luật ngân sách được sửa đổi để bảo đảm thực hiện tốt chính sách tài chính (chính sách tài khóa) thúc đẩy giải ngân và hợp tác công-tư (PPP).
Thứ hai, doanh nghiệp là động lực trung tâm, có vai trò tiên phong trong đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tuy nhiên, số lượng và quy mô hiện còn nhỏ so với yêu cầu thực tế. Hơn nữa, một số doanh nghiệp vẫn phát triển dựa vào chiến lược ngắn hạn và không bền vững như không minh bạch báo cáo và hoạt động tài chính...
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp không phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên các công cụ phân tích đầu tư tài chính lành mạnh như tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) hay giá trị hiện tại ròng của các dòng tiền (NPV) mà chạy theo thị trường ngắn hạn hoặc thậm chí dựa trên các tiêu chí như đội giá, hạ bớt tiêu chuẩn chất lượng, chạy quy hoạch và kéo dài tiến độ dự án…dẫn đến tình trạng nợ đọng, đảo nợ, bất cập thanh khoản, sở hữu chéo, cạnh tranh không lành mạnh, tham nhũng, lãng phí (bao gồm cả chi phí cơ hội cho xã hội)…
Saigon Marina IFC được xác định là công trình mở đầu, cung cấp hạ tầng hiện đại, mặt bằng chất lượng cao phục vụ hoạt động tài chính, đầu tư và kinh doanh quốc tế tại thành phố mang tên Bác.
Thứ ba, người dân, mặc dù mức thu nhập hạn chế do chính sách tiền lương còn vướng bất cập nhưng với lượng kiều hối chuyển về Việt Nam hàng năm thường ở mức cao, đạt khoảng 16-18 tỷ USD trong những năm gần đây, xứng đáng được coi là các nhà đầu tư quan trọng của nền kinh tế.
Tuy nhiên, số liệu thống kê cho thấy, lượng tiền đầu tư bao gồm lượng lớn kiều hối đổ vào bất động sản nhà ở có biểu hiện vượt quá lượng tiền đầu tư vào khu vực sản xuất, kinh doanh. Hơn nữa, số tiền đầu tư này lại chỉ tập trung vào phân khúc nhà ở thương mại giá cao, tạo nên tình trạng đầu cơ nhà đất ở quá lớn, gây sốt giá nhà ở, bong bóng bất động sản, giá ảo và tạo nên nguy cơ lạm phát…
Hiện nay, phần lớn chuyên gia quản trị kinh tế đều thống nhất cần phải triển khai quản lý hiệu quả tất cả nguồn lực một cách đồng bộ để bảo đảm phát triển kinh tế vững bền.
Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam hiện nay có một lịch sử phát triển đặc thù với nhiều bất cập, nếu cần sự đột phá để phát triển thì chắc chắn đó phải là sự ưu tiên cho quản trị nguồn lực tài chính bởi lẽ tài chính ngân hàng là huyết mạch của nền kinh tế và thậm chí cả thương mại quốc tế, mặc dù chúng không phải là lĩnh vực tăng trưởng.
Ngân hàng định hình và đóng góp vào các hoạt động kinh tế, xây dựng hoặc thậm chí phát triển cơ sở hạ tầng và công nghệ tài chính. Chính vì vậy, cần nhận thức dịch vụ tài chính như một phương tiện tăng trưởng trong các ngành công nghiệp ưu tiên khác cũng như giúp tăng cường giá trị tài sản ròng của mỗi cá nhân trong một đất nước có gần 100 triệu người.
Thành lập một IFC đòi hỏi cách tiếp cận nhiều mặt, trong đó các khía cạnh lý thuyết và thực tiễn quan trọng cần được xem xét. Ảnh minh họa. (Ảnh: Độc Lập)
IFC - Chiến lược dài hạn
Để tăng cường quản trị bền vững nguồn lực tài chính đất nước và kết nối toàn cầu trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 222/2025/QH15 về Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam Theo đó, việc xây dựng Trung tâm Tài chính quốc tế (IFC) tại TP. Hồ Chí Minh là chiến lược dài hạn.
Saigon Marina IFC được xác định là công trình mở đầu, cung cấp hạ tầng hiện đại, mặt bằng chất lượng cao phục vụ hoạt động tài chính, đầu tư và kinh doanh quốc tế tại thành phố mang tên Bác. Một IFC được đặt ở thành phố đầu tàu kinh tế cả nước sẽ tập trung nhiều trung gian tài chính chuyên nghiệp khác nhau, cả trong và ngoài nước, cùng nhau phối hợp hoạt động phục vụ hài hóa cho các chủ thể kinh tế quốc gia.
Tuy nhiên, thành lập một IFC đòi hỏi cách tiếp cận nhiều mặt, trong đó các khía cạnh lý thuyết và thực tiễn quan trọng cần được xem xét. Theo các chuyên gia tài chính, để hướng TP. Hồ Chí Minh mới sau sát nhập xứng đáng trở thành một IFC của đất nước và khu vực, nên chăng cần chú trọng thúc đẩy năm định hướng cơ bản sau:
Thứ nhất, đặc điểm cơ bản của hệ thống tài chính nói chung là yếu tố lòng tin và nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các chu kỳ tăng và giảm của các trung tâm tài chính quốc tế hàng đầu. Do vậy, chính phủ và IFC cần phát triển cơ sở hạ tầng tài chính nhằm xây dựng một nền tảng tài chính vững mạnh, hiện đại để hỗ trợ chính sách bảo đảm cho IFC phát triển bền vững và gây dựng lòng tin ngay từ những bước đi đầu tiên.
Bên cạnh đó, xây dựng mối quan hệ giữa các tổ chức tài chính của trung tâm và các tổ chức nước ngoài cũng như kết nối IFC với các thị trường khác, cả trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, cần phát triển quy mô của thị trường vốn, bao gồm trái phiếu, cổ phiếu, các công cụ tài chính phái sinh phi tập trung và các công cụ tài chính đa dạng đủ tạo mọi cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, Ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ của quốc gia xây dựng và phát triển thị trường tiền tệ toàn diện, có tính thanh khoản cao mang lại nhiều cơ hội đầu tư cho các nhà đầu tư và tổ chức trong và ngoài nước đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển IFC.
Hơn nữa, cần thực hiện minh bạch hóa chính sách tiền tệ nói chung, tỷ giá hối đoái và lãi suất nói riêng cũng như nâng cao năng lực quản lý thị trường, dự trữ ngoại hối và kim loại quý.
Thứ ba, chính sách tài chính (chính sách tài khóa) quốc gia, thường gắn liền với hệ thống ngân hàng trung ương và chính sách tiền tệ, thường biểu hiện thông qua chiều sâu và chất lượng của khuôn khổ quản lý trong IFC.
Chính phủ cần định hướng sự phát triển bền vững của IFC thông qua các thông điệp quốc gia rõ ràng (trách nhiệm giải trình - accountability) về chính sách đầu tư công và thuế cụ thể. Bên cạnh đó, cần thực hiện sớm quyết định số 1250/QĐ-TTg ngày 26/10/2023 để có các văn bản cụ thể hướng dẫn triển khai tốt Luật Giá số 16/2023/QH15 (Luật giá 2023) nhằm tăng cường chất lượng và hiệu quả định giá.
Thứ tư, đẩy mạnh ổn định kinh tế vĩ mô và quản trị bền vững các nguồn lực, trong đó cần quản trị tốt nguồn lực và thị trường tài chính nhằm bảo đảm duy trì và phát triển bền vững dòng tiền huyết mạch của nền kinh tế quốc gia trong tiến trình hội nhập.
Ổn định kinh tế vĩ mô giúp giảm lạm phát, cân bằng cán cân thương mại và ngân sách nhằm bảo đảm nguồn lực tài chính trong bối cảnh thị trường toàn cầu nhiều biến động và thúc đẩy vị thế IFC nổi bật giữa các trung tâm tài chính quốc tế hàng đầu.
Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế. Việc phát triển các chương trình hợp tác đối tác chiến lược toàn diện và tham gia cơ chế tài chính quốc tế giúp tăng dòng vốn ngoại, giảm rủi ro tỉ giá và củng cố vị thế của Việt Nam trên thị trường toàn cầu.
Đặc biệt, cần tận dụng hợp tác quốc tế để chuyển giao và làm chủ các công nghệ fintech cũng như công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) và học máy (Machine Learning) để hỗ trợ phát triển các mô hình và nâng cao năng lực phân tích và dự báo.
Trong quá trình đó cần triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa và xây dựng một hệ thống quản lý rủi ro toàn diện bảo đảm an ninh mạng. Ngoài ra, để triển khai IFC hiệu quả, cần có chiến lược kết hợp đào tạo và xây dựng môi trường làm việc “an cư lạc nghiệp” cho đội ngũ chuyên nghiệp vận hành IFC.
Phát triển IFC tại TP. Hồ Chí Minh cần kết hợp giữa quản trị bền vững mô hình năm nguồn lực của quốc gia và hợp tác quốc tế. Mặc dù TP. Hồ Chí Minh đang xếp hạng thấp so với các quốc gia trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương về phát triển tài chính, đo lường bằng ba tiêu chí bao gồm cơ hội đầu tư, giáo dục và hiệu quả của chính phủ.
Tuy nhiên, với truyền thống là đầu tàu kinh tế của cả nước, cùng với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ và thực hiện tốt các định hướng trên, IFC TP. Hồ Chí Minh sẽ góp phần xây dựng và phát triển siêu đô thị TP. Hồ Chí Minh mới trở thành siêu đô thị hàng đầu trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
TS. Đoàn Duy Khương