Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Cần một lộ trình phát triển theo các giai đoạn cụ thể

Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam: Cần một lộ trình phát triển theo các giai đoạn cụ thể
7 giờ trướcBài gốc
Nghị quyết 222/NQ-QH/2025 (NQ 222) đã có những quy định khá cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho TTTCQT tại Việt Nam hình thành và đi vào hoạt động. Tuy nhiên, các quy định trong Nghị quyết chỉ là định hướng, cần phải cụ thể hóa thành quy định pháp luật.
Nói cách khác, để TTTCQT có thể vận hành và phát triển, các chủ trương và định hướng pháp lý này cần phải được cụ thể hóa hơn nữa. Nhiệm vụ này thuộc về Chính phủ và các Bộ chủ quản trong việc triển khai ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành.
Dựa trên nền tảng pháp lý mà NQ 222 đã tạo ra, chúng ta cần một lộ trình phát triển theo các giai đoạn cụ thể, nên tập trung ngay vào những lĩnh vực có thể phát huy thế mạnh.
Trong giai đoạn 1, TTTCQT tại Đà Nẵng nên trở thành “Trung tâm Fintech và Tài sản số”, bởi việc thử nghiệm những thứ hoàn toàn mới (như DeFi, tài sản số) trong một môi trường ít bị ảnh hưởng bởi các hệ thống tài chính truyền thống sẽ dễ dàng và linh hoạt hơn.
Ngoài ra, môi trường sống được đánh giá là tốt và chi phí hợp lý của Đà Nẵng cũng là lợi thế để thu hút các nhân tài công nghệ và startup quốc tế. Nếu đối chiếu căn cứ pháp lý trong NQ 222, chúng ta dễ nhận thấy, các điều khoản này mang tính đột phá và hướng tới các lĩnh vực mới nổi, rất phù hợp với một môi trường linh hoạt và ít bị ràng buộc bởi hệ thống cũ như Đà Nẵng.
Cũng trong giai đoạn 1, TTTCQT tại TP HCM sẽ phát triển thành Trung tâm “Quản lý Tài sản và Quỹ đầu tư”, là “Trung tâm chính” năng động. Bởi căn cứ vào thế mạnh thực tế thì TP HCM là nơi có Sở Giao dịch chứng khoán lớn, có trụ sở của các ngân hàng, Cty chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư… hàng đầu.
Đối chiếu với NQ 222, các điều khoản dù không ghi đích danh TP HCM, nhưng nội dung của NQ 222 đã trực tiếp nhắm vào các thế mạnh và hệ sinh thái vốn chỉ có tại TP HCM thông qua việc thiết kế một bộ chính sách dường như “dành riêng” cho hệ sinh thái này.
Đơn cử như các quy định về Thành viên tại Điều 10 đã nhắc đến các định chế đang có trụ sở và hoạt động mạnh mẽ nhất tại TP HCM; các chính sách chuyên biệt về hoạt động ngân hàng trong Điều 17, vốn là hoạt động chính, quan trọng của ngành tài chính TP HCM...
Như vậy, thách thức trong giai đoạn 1 sẽ là thách thức về hoàn thiện khung pháp lý chi tiết và năng lực giám sát. Vì NQ 222 là luật khung, nên cần các Nghị định và Thông tư chi tiết về DeFi, stablecoin... Cạnh đó, các cơ quan giám sát cần có đội ngũ đủ trình độ để theo kịp thị trường.
Giải pháp có thể là thành lập Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ; áp dụng cơ chế tại điểm b khoản 2 Điều 21 để thuê chuyên gia quốc tế làm việc cho Cơ quan giám sát trong giai đoạn đầu...
Qua được giai đoạn 1, chúng ta sẽ bước vào giai đoạn 2. Đây chính là quá trình chuyển đổi bản chất của TTTCQT tại Việt Nam. Giai đoạn này không chỉ đơn thuần mở rộng các hoạt động, mà là quá trình xây dựng “nội lực” để thay thế cho các yếu tố “vay mượn” và “ưu đãi” của giai đoạn đầu.
Khi hoàn thành giai đoạn 2, TTTCQT tại Việt Nam sẽ hoàn thiện đầy đủ các trụ cột cần thiết, sẽ không còn cần phải dựa vào việc “trải thảm đỏ” để mời gọi, mà các nhà đầu tư sẽ tự tìm đến vì đây là một thị trường không thể bỏ lỡ trong khu vực. Đó chính là dấu hiệu đặc trưng của một TTTCQT.
Với thành công của giai đoạn 1 và 2, sau đó chúng ta có thể tiếp bước giai đoạn 3 với mục tiêu vươn tầm ảnh hưởng tại châu Á. Lúc này, TTTCQT tại Việt Nam sẽ là cầu nối các dòng vốn trong khu vực châu Á và trở thành một TTTCQT phát triển vững mạnh trong khu vực.
Có thể nói, về cơ bản, lộ trình TTTCQT tại Việt Nam đã được thiết kế một cách thực tế. Lộ trình này đi từ “vệ tinh” lên “cốt lõi”, từ khu vực Đông Nam Á vươn ra châu Á và thế giới. Đây là một chiến lược phát triển hợp lý, có tính logic cao.
Nguyễn Thị Thủy - Đỗ Lệnh Quân
Nguồn Pháp Luật VN : https://baophapluat.vn/trung-tam-tai-chinh-quoc-te-tai-viet-nam-can-mot-lo-trinh-phat-trien-theo-cac-giai-doan-cu-the.html