Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Thành (Quảng Nam): 'Cái Tết đầu tiên ở chùa'

Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Thành (Quảng Nam): 'Cái Tết đầu tiên ở chùa'
10 giờ trướcBài gốc
Khi lớn lên thì sợ Tết vì phải lo toan mọi thứ, nên Tết đôi khi là gánh nặng cho nhiều người với quan niệm dù khó khăn nhưng ngày Tết phải tươm tất, lu phải đầy gạo, nhà cửa phải khang trang, áo quần phải đẹp đẽ để khởi đầu năm mới được thuận lợi, ấm no và tươi mới…
Tôi có nhân duyên được tiếp cận cố Hòa thượng tôn sư Thích Từ Ý, nhân buổi lễ kỳ siêu cho giáo sư cố vấn lớp bị tai nạn giao thông qua đời do Ban Giám hiệu Trường PTTH Trần Cao Vân tổ chức tại chùa Hội Quán (nay là chùa Hòa An, TP.Tam Kỳ). Qua buổi lễ kỳ siêu, hình ảnh oai nghi, đức độ, dáng đi nhẹ nhàng khoan thai, ánh mắt từ bi của Thầy cùng với lời kinh nhịp mõ, hồi chuông và cả sự qua đời đột ngột của giáo sư cố vấn lớp đã giúp tôi cảm nhận được sự vô thường của cuộc đời.
Từ buổi đó, về nhà trọ hay lúc đến lớp thì hình ảnh tôn sư lần đầu tiên gặp gỡ luôn hiển hiện trong tôi. Nên mỗi khi rỗi học, tôi thường lui tới chùa thăm Thầy, để được Thầy xoa đầu, ân cần chỉ dạy đạo đức làm người. Nghe nhiều thấm lâu, ý nguyện xuất gia khơi dậy trong tôi. Nhân duyên hội đủ, với tâm nguyện tha thiết cầu đạo, được thân phụ đồng ý, tôn sư dang tay tế độ, từ đó tôi trở thành đệ tử xuất gia của ngài.
Năm 1962 là cái Tết đầu tiên tôi ở chùa. Tôi nhớ mãi khi đó vào giờ tụng kinh, tôi được Thầy dạy ở dưới để trông chùa, còn Thầy và chư huynh đệ lên chùa để sám hối cuối năm.
Sau khi tôi cùng các bạn chơi ngoài sân chán, thì lại rủ nhau vào nhà bếp tìm gì đó để ăn. Tuy là ngày Tết nhưng giai đoạn đó rất khó khăn, vừa chiến tranh, vừa đói khổ nên Tết cũng chẳng được sung túc, chỉ là những bữa ăn rau, dưa hàng ngày thêm vào một, hai món để gọi là ăn ngon ngày Tết.
Khi xuống bếp nhìn thấy một giỏ cam để trên bàn nên tôi tưởng là cam cúng hồi chiều đem xuống, bèn lấy một trái đem ra lột vỏ chia nhau ăn. Sau khi tụng kinh xuống, vị Phật tử đem cam cúng cho Thầy (nhưng đi trễ chưa kịp cúng, bèn gởi tạm cho cô phụ bếp) vào lấy bịch cam, thấy mất một trái bèn la lên: “Tôi đem cam cúng cho Thầy mà ai ăn mất một trái?”. Nghe có tiếng ồn ào dưới nhà bếp, tôi hoảng quá nên vội chạy ra lầu trống để núp. Biết chuyện, Thầy đem hai trái cam ra đưa cho tôi dạy đem trả cho vị Phật tử nọ. Mọi việc đã êm xuôi, sau đó đạo hữu, Phật tử lần lượt ra về, phòng Thầy vắng khách, Thầy kêu tôi vào dạy rằng: “Con muốn ăn gì vào đây Thầy cho chứ đừng lấy vậy”. Rồi Thầy mở tủ lấy bánh cho tôi và bảo đem ra ngoài ngồi ăn để đón giao thừa. Tôi quỳ xuống chắp tay lạy Thầy và thầm cảm ơn Thầy đã bao dung lỗi lầm của mình.
Sau này, khi tôi được Thầy dạy về chùa Từ Quang để ở cùng các huynh đệ, ngoài thời gian chấp tác, công phu bái sám, anh em chúng tôi còn chia nhau ra dạy học để có kinh tế cho chùa. Và mỗi khi Tết đến, chúng tôi trồng hoa bán để cải thiện đời sống nhưng cũng không khá hơn, vì lúc đó người dân còn nghèo, chẳng mấy ai có tiền nhiều để mua hoa chưng Tết. Nên hoa trồng cũng để cho chùa đẹp vào dịp xuân về, cho bà con đến chùa lễ Phật, thăm quý thầy và ngắm hoa.
Mỗi khi Tết đến, chúng tôi trồng hoa bán để cải thiện đời sống nhưng cũng không khá hơn, vì lúc đó người dân còn nghèo, chẳng mấy ai có tiền nhiều để mua hoa chưng Tết. Nên hoa trồng cũng để cho chùa đẹp vào dịp xuân về, cho bà con đến chùa lễ Phật, thăm quý thầy và ngắm hoa.
Sau năm 1972, khi Hòa thượng tôn sư khai sơn chùa Hưng Quang, tôi được cử về đây cho đến này nay. Ở đây, tôi vẫn duy trì nếp sinh hoạt “Tết trồng hoa bán”. Lúc này, khi đất nước thái bình, người ta cũng quan tâm đến chuyện “ăn Tết” nên hoa bán được, nhờ vậy mà chùa có kinh phí để trang trải cho các việc nhỏ, cải thiện một phần đời sống của chư Tăng và cũng có được những ngày Tết vui vẻ, đầy đủ.
Ngày nay, khi xã hội phát triển, việc “ăn Tết” đã không còn phong vị như xưa, những câu chuyện ngày xuân cũng dần ít thi vị nhưng hồn xuân thì vẫn còn. Việc thăm nhau, chúc nhau ngày Tết ở những vùng quê vẫn duy trì như một nếp sống và sự gắn kết; những trò chơi dân gian thỉnh thoảng vẫn thấy đâu đó như để giữ gìn một bản sắc văn hóa dân tộc, còn phần nhiều hầu như vẫn thờ ơ với Tết.
Riêng người Phật tử và người dân yêu mến đạo Phật vẫn giữ được thói quen đến chùa ngày đầu xuân với tâm niệm cầu bình an, may mắn trong năm mới. Bên chén trà ngày Tết, thầy trò có dịp ngồi lại bên nhau. Thầy ân cần chỉ dạy những điều tích cực trong đời sống, về giá trị của việc tu trì và trách nhiệm của người Phật tử. Trò cung kính đón nhận trong niềm hoan hỷ để rồi chợt nhận ra ý nghĩa nơi mỗi đời người: Đừng mải rong ruổi như những gã cùng tử lang thang mà phải biết quay về để nhận ra hạt châu nơi chéo áo, khi ấy mới có thể cảm nhận được hết vẻ đẹp của mùa xuân trong dòng sinh diệt của thời gian:
… Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
(Mãn Giác thiền sư)
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
(HT.Thích Thanh Từ dịch)
Quảng Hậu ghi/Báo Giác Ngộ
Nguồn Giác ngộ : https://giacngo.vn/truong-lao-hoa-thuong-thich-thien-thanh-quang-nam-cai-tet-dau-tien-o-chua-post74517.html