Đây là nhận định được TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách Tài chính - tiền tệ Quốc gia đưa ra tại Diễn đàn Hoạch định Tài chính Cá nhân, do Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam (VFCA) và Trường Đại học Văn Lang tổ chức ngày 23/08.
Theo ông Lực, tổng tài sản hệ thống tài chính Việt Nam đạt hơn 30 triệu tỷ đồng, tương đương 265% GDP. Theo thông lệ quốc tế, con số này bao gồm tổng tài sản của tổ chức tín dụng, vốn hóa thị trường cổ phiếu, dư nợ trái phiếu và doanh thu phí bảo hiểm.
Trong giai đoạn 2011 - 2024, hệ thống tài chính tăng trưởng bình quân 16%/năm, cao gấp 2,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP (6,1 - 6,2%/năm).
Xét theo từng cấu phần, tổng tài sản ngân hàng tăng gần 15%/năm; vốn hóa thị trường cổ phiếu tăng 26%/năm; dư nợ trái phiếu tăng khoảng 8%/năm. Ngành bảo hiểm dù duy trì tăng trưởng 16%/năm, nhưng giai đoạn 2023 - 2024 có gặp sự cố liên quan đến hoạt động tư vấn đầu tư tài chính gắn với bảo hiểm. Những con số này cho thấy sự "khập khiễng", đặc biệt ở thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
“Mặc dù phát triển nhanh, quy mô hệ thống tài chính Việt Nam vẫn chỉ ở mức trung bình so với quốc tế. Tại Trung Quốc, tỷ lệ này đạt tới 400% GDP, trong khi Nhật Bản, Hàn Quốc hay Singapore còn cao hơn”, TS. Lực đánh giá.
TS. Cấn Văn Lực chia sẻ tại diễn đàn.
Xét về cấu trúc cung ứng vốn cho nền kinh tế, hệ thống ngân hàng chiếm khoảng 66% quy mô tài chính, trái phiếu chiếm khoảng 11%, doanh thu phí bảo hiểm dưới 1% và thị trường chứng khoán gần 22%. Tuy nhiên, năm 2024, ngân hàng cung ứng tới 50% tổng vốn cho nền kinh tế, cho thấy sự phụ thuộc quá lớn vào hệ thống ngân hàng, trong khi các kênh khác chưa phát huy vai trò đúng mức.
“Sang nửa đầu năm 2025, tín dụng ngân hàng tăng nhanh, đẩy tỷ trọng đóng góp lên gần 59%, càng làm rõ sự mất cân đối”, TS. Lực nhấn mạnh.
Cơ cấu thị trường tài chính theo khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế năm 2024 và 6 tháng 2025.
Trong khi đó, một nghịch lý nổi bật là thị trường chứng khoán Việt đang phát triển rất mạnh mẽ, dòng vốn cá nhân đang có sự dịch chuyển từ ngân hàng sang, góp phần thúc đẩy thị trường bùng nổ, với 10,4 triệu nhà đầu tư tham gia, song lượng vốn huy động được chỉ tương đương một ngân hàng nhỏ.
Theo tính toán, tỷ trọng vốn từ chứng khoán chỉ chiếm hơn 3% tổng vốn cho nền kinh tế năm 2024 và giảm xuống còn chưa đến 1% trong 6 tháng đầu năm 2025, phản ánh chức năng huy động vốn chưa được phát huy đúng mức.
TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh, điều quan trọng đặt ra là làm thế nào để thị trường chứng khoán thực sự trở thành kênh cung cấp vốn cho sản xuất kinh doanh, thay vì chỉ thiên về đầu cơ, lướt sóng.
Bên cạnh chứng khoán, khu vực doanh nghiệp tư nhân cũng chưa đóng góp hiệu quả cho nền kinh tế. Theo khảo sát, vốn góp thực tế hàng năm của doanh nghiệp tư nhân chỉ bằng 10% vốn đăng ký, nghĩa là thực chất chỉ chiếm chưa đến 5% tổng vốn.
Trong khi đó, thị trường bảo hiểm tăng trưởng nhanh nhưng quy mô vẫn rất nhỏ so với thông lệ quốc tế. Doanh thu phí bảo hiểm mới đạt 2,3% GDP, thấp hơn mức bình quân 3,5% GDP của ASEAN.
Thị trường quỹ đầu tư – vốn được kỳ vọng là kênh huy động vốn quan trọng cũng phát triển chậm. Dù đã trải qua nhiều làn sóng quỹ ngoại vào Việt Nam, đến nay quy mô thị trường quỹ vẫn còn khiêm tốn. TS. Cấn Văn Lực cho rằng, trong thời gian tới, hai vấn đề cần khắc phục là củng cố thị trường trái phiếu và thúc đẩy thị trường quỹ đầu tư.
Nhìn chung, vấn đề cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng gay gắt, với sự tham gia của ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, Fintech, 1.200 quỹ tín dụng nhân dân và cả hoạt động cho vay ngang hàng. Hiện tổng tiền gửi cá nhân trong hệ thống ngân hàng đạt 14,5 triệu tỷ đồng, trong khi dư nợ cho vay lên tới 17,4 triệu tỷ đồng, phản ánh nhu cầu vốn cho nền kinh tế vẫn rất lớn.
Tuy nhiên, thực trạng các kênh dẫn vốn của Việt Nam đang thể hiện sự mất cân đối rất lớn, đặc biệt là khi so sánh với sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc (quy mô thị trường tài chính lớn, nhưng nguồn vốn từ ngân hàng chỉ chiếm khoảng 50% - thấp hơn Việt Nam). Do đó, TS Lực cho rằng Việt Nam cần có sự thay đổi, bao gồm thay đổi về mô hình quản lý và giám sát hệ thống tài chính Việt Nam.
Kiều Trang