Nền sản xuất của Việt Nam còn ở cấp... thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu
Theo TS Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu BIDV, nền sản xuất của Việt Nam hiện vẫn còn nằm trong cấp thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Hiện trạng phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chiến lược và công nghiệp hỗ trợ (CHHT) vẫn còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ nội địa hóa một số sản phẩm chủ lực vẫn còn thấp hơn nhiều đối thủ cạnh tranh chính khác như Trung Quốc (67,1%), Thái Lan (58,4%), Ấn Độ (53,3%), Indonesia (49,3%), Malaysia (38,5%)…
Hàm lượng giá trị gia tăng nội địa trong xuất khẩu ở mức thấp so với các nước trong khu vực, trên thế giới; doanh nghiệp (DN) trong nước vẫn đóng góp khá hạn chế trong xuất khẩu. Đặc biệt, tỷ lệ này là rất thấp đối với các ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất là sản phẩm điện tử và linh kiện, máy tính, điện thoại; máy móc thiết bị phụ tùng.
Nguyên nhân của tình trạng trên do chiến lược đầu tư của các DN FDI tập trung nhiều vào khâu gia công, lắp ráp. Những khâu có giá trị gia tăng cao như thiết kế, công nghệ lõi, marketing thường nằm tại các quốc gia phát triển.
Doanh nghiệp FDI thường mang nhà cung cấp từ nước họ sang (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản…) dẫn tới nhu cầu liên kết với DN trong nước và phát triển chuỗi cung ứng nội địa rất hạn chế. Do vậy, nhiều tập đoàn nước ngoài chưa thực sự hỗ trợ DN trong nước hay chia sẻ công nghệ cốt lõi cho đối tác Việt Nam.
Nền sản xuất của Việt Nam vẫn ở cấp thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu
Ngoài ra, các nước ASEAN đã có hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ mạnh khiến các DN Việt Nam ngày càng khó tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đặc biệt, các tiêu chuẩn quốc tế ngày càng cao, ví dụ xu hướng xanh hóa, phát thải carbon thấp, truy xuất nguồn gốc… dẫn tới nhiều DN nội địa khó theo kịp các yêu cầu mới.
Việt Nam ưu đãi FDI tốt, nhưng hỗ trợ DN trong nước, đặc biệt DN nhỏ và vừa, còn chưa được nhiều và phân tán, chưa hiệu quả; thiếu nguồn tài chính dài hạn cho đầu tư phát triển công nghiệp, đổi mới công nghệ. Chính sách thuế ưu đãi nhiều cho FDI nhưng doanh nghiệp trong nước hưởng lợi ít, đặc biệt là doanh nghiệp công nghiệp chiến lược, CNHT hỗ trợ.
Ngoài ra, ở Việt Nam, phần lớn là DN nhỏ, quy mô và nguồn lực hạn chế, chưa đủ sức tham gia sâu vào chuỗi cung ứng, thiếu vốn, thiếu công nghệ. Chưa kể, chiến lược kinh doanh của nhiều DN còn tập trung vào lợi nhuận trước mắt mà chưa chú trọng đầu tư phát triển dài hạn.
“Nhiều DN vẫn quan tâm nhiều đầu tư vào bất động sản, vào kiếm lợi trước mắt, chưa thực sự dành nguồn lực cho chiến lược dài hạn, phát triển bền vững”, ông Lực nêu.
Không thể ép buộc doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ
TS Cấn Văn Lực cho rằng Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp trọng tâm để phát triển các ngành công nghiệp chiến lược nhằm từng bước nâng cao vai trò và giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị toàn cầu ngay trong giai đoạn 2026-2030 và tiếp theo.
“Tuy nhiên, cần lưu ý, Việt Nam phải tuân thủ WTO, các FTA (EVFTA, CPTPP…) nên không được gắn điều kiện phê duyệt đầu tư với “phải chuyển giao công nghệ”. Thay vì “ép buộc”, nên thiết kế ưu đãi có điều kiện, tự nguyện - minh bạch”, ông Lực nói.
Ông Lực cho rằng cần có chính sách công nghiệp tổng thể, tập trung vào xây dựng nền công nghiệp xanh, ứng dụng mạnh mẽ KH-CN, chuyển đổi số và có giá trị gia tăng cao.
Cụ thể, cần hiện đại hóa hạ tầng năng lượng và hạ tầng số, triển khai các nguồn năng lượng tái tạo, điện hạt nhân quy mô nhỏ và lưới truyền tải thông minh; ưu tiên phát triển các cụm ngành chiến lược như điện tử - bán dẫn, cơ khí chính xác, vật liệu xanh, ô tô - xe điện, và chế biến nông sản công nghệ cao…
TS Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng BIDV
Ngoài ra, nâng cấp công nghiệp hỗ trợ, tăng tỷ lệ nội địa hóa và kết nối sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Đẩy mạnh chương trình “Make in Vietnam”, thúc đẩy DN sản xuất trong nước không chỉ lắp ráp mà còn tự thiết kế, chế tạo.
Một giải pháp nữa là thúc đẩy phát triển DN trong nước và liên doanh, liên kết với DN FDI.
Theo đó, cần thu hút các lĩnh vực, dự án có hàm lượng công nghệ cao, đổi mới sáng tạo và giá trị gia tăng lớn để nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam như bán dẫn, AI, công nghệ sạch…; ưu tiên dự án có cam kết tỷ lệ nội địa hóa cao, có chuyển giao công nghệ và đào tạo lao động Việt Nam, hạn chế thu hút các dự án chỉ sử dụng lao động giá rẻ, không tạo liên kết với DN trong nước.
Rà soát và điều chỉnh các chính sách ưu đãi thuế để phù hợp với quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu (GMT) đang được nhiều quốc gia áp dụng, làm cho các ưu đãi thuế thu nhập DN kém hấp dẫn hơn trước; hỗ trợ DN vừa và nhỏ tham gia chuỗi cung ứng của các DN FDI; nâng cấp hệ thống giáo dục nghề nghiệp, gắn kết với nhu cầu của DN.
Ông Lực cũng khuyến nghị nghiên cứu bổ sung chương trình đào tạo kỹ sư chuyên sâu về bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI), pin - năng lượng mới…, đồng thời thu hút nhân tài Việt Nam ở nước ngoài trở về làm việc trong nước; áp dụng chế độ lương, thưởng và chế độ đãi ngộ cạnh tranh trong các DN công nghệ…
Cùng với đó, thành lập, vận hành hiệu quả Quỹ phát triển công nghiệp chiến lược và CNHT; ưu tiên các dự án đầu tư có công nghệ tiên tiến, cam kết chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cho DN Việt Nam; có phương án hỗ trợ thêm cho các DN nội địa đầu tư sản xuất linh kiện, nhất là trong lĩnh vực sản xuất ô tô, điện tử, năng lượng sạch…
Ông Lực cũng nhấn mạnh cần tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng và nguồn nhân lực cho KH-CN, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và DN. Hình thành các khu công nghệ cao tại Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ để phát triển công nghệ bán dẫn, AI, năng lượng sạch…
Lam Thanh