Thiên nhiên, chiếc nôi nuôi dưỡng con người đang bị bào mòn đến mức báo động. Sự thịnh vượng đô thị đang tiêu hao nguồn lực vượt xa ngưỡng môi trường toàn cầu. Thuyết Dấu chân sinh thái (1) đã tính được lượng tài nguyên khổng lồ cần tiêu thụ phía sau mỗi đô thị. Hà Nội có diện tích tự nhiên hơn 3.300 km² nhưng đang tiêu thụ lượng tài nguyên với dấu chân sinh thái ước tính gấp 20 lần diện tích đó. TP.HCM cũng đang tiêu thụ diện tích sinh thái gấp khoảng 25 lần chính mình. Còn với Đà Nẵng thì con số này ở khoảng 15 (2).
Tài nguyên và đô thị
Tài nguyên địa điểm là yếu tố khởi đầu, quyết định sự hình thành đô thị (nơi có sông ngòi, trục thương mại hay khoáng sản thì thành phố mới trỗi dậy). Tiếp đến, tài nguyên đất đai là chất liệu trực tiếp để xây dựng. Khi dân số tăng, thị trường mở rộng, sự phát triển sẽ lan tràn. Đôi khi, sự phát triển còn lan tràn ngay cả khi dân số chưa có nhu cầu đến mức như vậy. Đó là những thời kỳ mà diện tích đất đô thị hóa với sự thúc đẩy của xây dựng hạ tầng đã biến thành một thứ vốn mà mọi người đều muốn nắm giữ.
Tài nguyên cảnh quan là yếu tố thường được xét đến sau cùng trong sự đánh giá bởi nó thuộc về một phạm trù khác: vẻ đẹp của mỗi vùng đất, thứ vẻ đẹp mong manh, rất dễ bị tổn thương và một đi không trở lại. Nó có thể bị mất đi trước cả khi tài nguyên đất đai bị khai thác triệt để. Chỉ cần một trong các yếu tố làm nên giá trị của vẻ đẹp bị biến dạng, toàn bộ vẻ đẹp sẽ mất hoặc xuống cấp, hoặc bị số đông coi là “xấu”.
Hà Nội ngập lụt diện rộng dù bão số 5 không ảnh hưởng trực tiếp. Trong ảnh: khu vực vành đai 3 ngập như sông ngày 26.8.2025. Ảnh: Thanh Thủy
Từ xa xưa, cảnh quan tự nhiên luôn là chất liệu để hình thành đô thị. Kinh thành Huế được đặt bên dòng sông Hương và dưới bóng núi Ngự Bình, vừa thuận lợi về phòng thủ, vừa mang tính biểu tượng. Người Pháp khi quy hoạch Hà Nội, Hải Phòng, Đà Lạt, Nha Trang, Vũng Tàu… đã coi đô thị như “viên ngọc sáng” đính trên nền cảnh quan rộng lớn. Những khu phố bên hồ, khu nghỉ dưỡng xen trong thung lũng, những khu phố biển mở ra đại dương - đã từng là những di sản cảnh quan văn hóa được đánh giá cao, nhiều trong số đó vẫn còn sức sống đến ngày nay.
Kể từ sau Đổi mới năm 1986, đô thị hóa trên toàn cõi Việt Nam đã diễn ra với tốc độ chưa từng có và lũy tiến từng năm. Nhưng thay vì tiếp nối tinh thần “xây dựng cùng thiên nhiên”, nhiều nơi chọn san lấp, mở đất, phát triển tràn lan.
Mở rộng không gian đô thị tất yếu đòi hỏi xâm lấn vào những vùng tự nhiên. Song xâm lấn bao nhiêu, với tốc độ nào, theo hình thái nào nằm trong quyết định của con người. Có nhiều lựa chọn khác nhau để người ta tìm ra cách phát triển bền vững hơn. Đáng tiếc là chúng ta thường chọn cách dễ nhất, nhanh nhất: biến đất đai thành lợi nhuận trực tiếp.
Bài toán hạ tầng và “đô thị đất”
Hà Nội, từ khi mở rộng địa giới năm 2008 đến nay đã trở thành một siêu đô thị chứa gần 10 triệu dân. Nhưng sự mở rộng đó đi kèm hàng loạt vấn đề: nhiều hồ và sông bị san lấp, nhiều khu đô thị mới rơi vào tình trạng bỏ hoang, còn hạ tầng xã hội và dịch vụ công thì thiếu hụt. Vùng ven đô đang trở thành một vành đai công nghiệp thay vì vành đai xanh. Tức là vùng cảnh quan, vùng trữ nước, vùng văn hóa làng nghề xưa đã mai một, thậm chí mất hoàn toàn chức năng vốn có. Trong bối cảnh ấy, không lạ gì khi thấy thành phố ngày càng ngập úng hơn, bầu trời xám hơn, không khí nhiều bụi hơn, người dân mau già hơn.
TP.HCM, vốn được mệnh danh là thành phố của kênh rạch, từng sở hữu mạng lưới sông ngòi dày đặc nối liền từ Sài Gòn ra các cửa sông Đồng Nai, sông Vàm Cỏ. Những con kênh như Tàu Hủ, Bến Nghé, Nhiêu Lộc, Thị Nghè… từng là huyết mạch giao thông, là nơi người dân sống nhờ buôn bán và cũng là cảnh quan tạo nên bản sắc đặc biệt của đô thị sông nước Nam bộ. Thế nhưng chỉ trong vài thập kỷ, hàng chục dòng kênh đã bị lấp đi để lấy đất làm đường hoặc phân lô dự án.
Nhiều con kênh còn tồn tại thì biến thành “dòng sông chết”, trở thành nơi chứa rác, nước thải, bốc mùi hôi thối. Thay vì là trục cảnh quan và giao thông xanh, kênh rạch lại trở thành điểm yếu của thành phố, gây ra tình trạng ngập lụt nặng nề mỗi mùa mưa. Điều này đồng nghĩa với việc khả năng điều tiết tự nhiên bị suy giảm và thành phố ngày càng phụ thuộc vào các giải pháp công trình đắt đỏ mà vẫn không giải quyết tận gốc bài toán ngập.
Hải Phòng với Đồ Sơn từng là bãi biển nghỉ mát nổi tiếng, nay chen chúc các khu khách sạn, nhà hàng và khu du lịch tư nhân. Đường bờ biển vốn là không gian công cộng quý giá cho cộng đồng dần bị chia cắt thành các mảnh đất dự án. Những dự án xây dựng trên biển hàng trăm hecta được dự kiến xây ngay trên vùng biển Đồ Sơn có thể biến mũi đất này từ một thắng cảnh trăm năm trở thành một hình ảnh khá “buồn cười” trong khung cảnh mới.
Các chuyên gia và dư luận từng lên tiếng phản đối xây dựng quá nhiều khu du lịch, biệt thự... trên bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) đã phá vỡ cảnh quan tự nhiên của hệ sinh thá quý hiếm cần được bảo tồn. Ảnh: CTV
Đà Nẵng, nơi được mệnh danh là “thành phố biển đáng sống” cũng đang phải trả giá cho cuộc chạy đua phát triển khách sạn ven bờ. Từ bán đảo Sơn Trà đến tận Hội An, hàng chục cây số ven biển đã được chia lô cho các khu nghỉ dưỡng, một chuỗi đô thị trải dài liên tục 30 cây số.
Hạ Long - di sản thiên nhiên thế giới - cũng không tránh khỏi việc tự tàn phá nền cảnh quan của mình. Các dự án lấn biển, công viên giải trí, cáp treo, khu đô thị ven bờ đã làm biến dạng đường bờ và tầm nhìn kỳ vĩ của vịnh. Thay vì lấy cảnh quan làm nền tảng cho kinh tế, chúng ta lại biến cảnh quan thành thứ hàng hóa bị tiêu thụ một cách tầm thường nhất: diện tích đất thương phẩm. Lợi ích trước mắt che mờ giá trị lâu dài, để rồi khi vẻ đẹp mất đi, du lịch cũng mất chỗ dựa.
Sa Pa từng là một thị trấn nhỏ bé, nép mình trong thung lũng ruộng bậc thang, mây núi và bản làng. Chỉ trong một vài thập kỷ, các cao ốc khách sạn mọc dày đặc, bám kín sườn núi. Bản sắc bản làng bị hòa tan, ruộng bậc thang bị chia cắt để nhường chỗ cho khu nghỉ dưỡng. Sa Pa ngày nay đón hàng triệu khách mỗi năm nhưng doanh thu du lịch không đủ trang trải hạ tầng và an sinh xã hội. Như thế, sự đô thị hóa cũng chỉ có tác dụng tự ăn mòn vào “cảnh quan thương hiệu” - thứ vốn quý hiếm mà khi đã giảm giá rồi thì không thể tăng trở lại.
Khi cảnh quan bị thương mại hóa cho đối tượng đại trà, du lịch cũng sẽ mất giá trị lâu dài. Ngày nay ngay cả những bản làng xa xôi, nhờ đường nhựa cũng đã trở nên gần lại với trung tâm đô thị. Du khách có thể đến dễ dàng hơn, đời sống người dân được cải thiện, ti vi, xe máy và các tiện ích khác cũng đã trang bị cho từng người những công cụ khai thác môi trường mạnh mẽ gấp ngàn lần trước đây. Điều không thể đảo ngược là con người ngày nay có thể “ăn” môi trường với năng lực chưa từng có và chỉ có thể kiềm chế nếu họ cũng có một nhận thức chưa từng có về bảo vệ môi trường.
Đà Lạt cũng đang đi theo con đường ấy. Thành phố vốn được thiết kế như một khu nghỉ dưỡng xanh nay dần biến thành một “đại công trường bê tông”. Rừng thông bị thay bởi những biệt thự san sát, hồ và suối bị che bởi nhà kính nông nghiệp và dự án bất động sản.
Đà Lạt mộng mơ nay là thành phố bê tông. Ảnh: Thy Huệ
Nguồn thu từ đất đai và bất động sản chiếm tỷ trọng áp đảo trong ngân sách nhiều địa phương. Với ngắn hạn, đây là giải pháp tài chính, song với dài hạn đó là vòng xoáy nguy hiểm. Khi mọi địa phương đều bán đất để tồn tại, quy hoạch biến thành công cụ phục vụ thị trường địa ốc. Thực tế cho thấy nhiều làng xóm bị nuốt vào đô thị mà hạ tầng nghèo nàn, sông ngòi thành cống hở, các khu nhà cao tầng lặp đi lặp lại mô-típ khô cứng.
Cần một hướng đi nhân văn hơn
Nhìn lại mấy thập kỷ qua chúng ta thấy rõ kinh tế đất đã thúc đẩy phát triển nhanh, đồng thời cũng phá hỏng nền tảng cảnh quan và văn hóa đô thị đến mức không thể phục hồi. Nếu không kịp thay đổi tư duy này, các đô thị Việt Nam sẽ mất chính cái nền mà chúng từ đó sinh ra, phát triển và trở nên khác biệt. Trách nhiệm xây dựng cùng thiên nhiên cũng nằm trong hệ ý thức này. Khi xây dựng đô thị, liệu con người có nhìn nhận vai trò của mình như một nhân tố tạo nên những vẻ đẹp mới, hài hòa với địa điểm, phản ánh những tinh hoa văn hóa của thời đại hay họ chỉ đơn giản là xây dựng nên những khối tích, đủ cho hoạt động và những tham vọng vị kỷ.
Như đã từng được khuyến cáo bởi giới chuyên môn, việc phát triển đô thị cần tôn trọng các nguyên tắc của việc bảo tồn và phát triển tiếp nối từ hệ sinh thái tự nhiên:
- Hiểu biết và tôn trọng địa hình, thủy văn, tránh lấp hồ, kênh, mà trái lại cần gìn giữ tính tự nhiên của các lưu vực và biến chúng thành lõi cảnh quan đô thị.
- Phát triển dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về di sản cảnh quan - văn hóa mà các thế hệ trước để lại, điều sẽ làm nên tính duy nhất của mỗi địa điểm.
- Tìm ra mối quan hệ hài hòa giữa phát triển và hệ sinh thái tự nhiên để mỗi dự án, mỗi công trình đều thể hiện được một văn hóa cảnh quan thay vì chỉ quan tâm lợi ích kinh tế.
- Thay đổi cơ chế quản trị và tài chính đô thị, từ phụ thuộc vào bán đất sang dựa trên dòng thu từ dịch vụ, tri thức, sáng tạo.
Một hướng đi nhân văn hơn cần được đề cập: đô thị hóa không phải là “ăn đất”, mà là “kiến tạo giá trị từ cảnh quan”, coi cảnh quan là tài nguyên dự trữ để bảo vệ cho nhiều thế hệ mai sau. Điều đó cần trở thành chiến lược mà mỗi đô thị đặt lên hàng đầu, hiểu và thực hành nó một cách sâu sắc thay vì chỉ hô khẩu hiệu. Muốn làm được điều này, cần sự thay đổi đồng bộ từ nhận thức của từng người dân, quyết tâm của chính quyền cho đến những thể chế pháp lý và công cụ kinh tế mới để tìm đến giới đầu tư tinh hoa thay vì giới đầu tư hạ tầng đổi đất.
Nếu coi cảnh quan như một loại “tài khoản tiết kiệm chung” của quốc gia, thì phát triển nhân văn chính là cách gửi thêm giá trị vào đó thay vì chỉ rút ra.
Nguyễn Xuân Anh - Chuyên gia quy hoạch đô thị và vùng
_______________
(1) Ecological Footprint - một thước đo cho thấy mức độ tác động của một cá nhân, một cộng đồng hoặc một quốc gia lên hệ sinh thái của Trái đất(2) Ngoc Bui Hoang, 2021, The impact of human capital and urbanization on ecological footprint in Vietnam, https://www.researchgate.net/publication