Tự hào và tri ân

Tự hào và tri ân
3 ngày trướcBài gốc
Ông Nguyễn Trung Chính, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy (nay là Thành ủy Huế): Giải phóng Huế có ý nghĩa hết sức quan trọng
Chiến dịch Huế - Đà Nẵng như một “cú đấm” mạnh, mở thêm một cửa ngõ để tiến vào miền Nam; góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn đất nước
Để có chiến thắng của Chiến dịch Huế - Đà Nẵng (từ ngày 21 – 29/3/1975) nói chung và giải phóng Huế nói riêng, đó là chặng đường dài chuẩn bị lực lượng, xây dựng vững chắc thế trận, với biết bao sự hy sinh, bao nhiêu làng mạc, nhà cửa bị tàn phá; nhất là sau Tổng Tiến công và nổi dậy Xuân 1968, lực lượng của ta bị tổn thất nặng nề. Sau đó, ta từng bước khôi phục, xây dựng lực lượng và đưa những tiểu đoàn về đồng bằng để giành dân, giành chính quyền. Điều đó có ý nghĩa hết sức to lớn dẫn đến thắng lợi.
Trong khoảng thời gian từ 9 – 14/3/1975, quân ta đã đánh để giành dân, giành quyền làm chủ ở một số “vùng lõm” phía bắc thành phố Huế, như Phong Điền, Quảng Điền và ở phía nam như Hương Thủy, Phú Vang. Điều này giúp quân ta xây dựng được thế trận, gây tổn hao đáng kể sức mạnh của địch.
Trong Chiến dịch Huế - Đà Nẵng, tôi được giao chỉ huy lực lượng phía bắc (Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà) để đánh vào thành phố Huế. Huế giải phóng chỉ sau 5 ngày đêm. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng như một “cú đấm” mạnh, mở thêm một cửa ngõ để tiến vào miền Nam; góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn đất nước.
Sau khi độc lập, những ngày đầu gặp vô vàn khó khăn, đó là công tác khắc phục hậu quả sau chiến tranh, cùng với ổn định đời sống Nhân dân, triển khai các giải pháp để phát triển kinh tế - xã hội. Trước những khó khăn đó, với sự quyết tâm của các cấp lãnh đạo, sự đồng lòng của Nhân dân đã giúp tỉnh nhà từng bước vượt qua khó khăn, phát triển không ngừng; để đến hôm nay được công nhận thành phố trực thuộc Trung ương thứ 6 của Việt Nam.
Đúc kết lại chặng đường 30 năm đấu tranh giải phóng dân tộc và 50 năm xây dựng, phát triển quê hương, đó là truyền thống tự hào dân tộc, thể hiện sự lãnh đạo tài tình của Đảng và sự đoàn kết, đồng lòng chung sức của Nhân dân Thừa Thiên Huế trước đây và bây giờ là thành phố Huế.
Huế không phải là trung tâm kinh tế, mà là trung tâm văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ của cả nước. Khi nói đến kinh tế là những con số rất cụ thể, còn văn hóa lại rất khó cụ thể hóa bằng những con số. Huế phát triển như ngày hôm nay là cả sự quyết tâm, nỗ lực rất lớn. Rất tự hào về những gì mà Huế đã trải qua. Và tin tưởng Huế sẽ tiếp tục chủ động, sáng tạo, vững bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Ông Nguyễn Huy Ngọc, nguyên Chính trị viên Biệt động thành ở cánh bắc Huế, nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy (nay là Thành ủy Huế): Biết ơn những người đã anh dũng ngã xuống
Ấn tượng của tôi trong chiến dịch giải phóng Huế đó là sự khốc liệt của các mặt trận Hương Trà, Hương Thủy, Phong Điền, Quảng Điền… bởi đây là các mặt trận xung quanh thành phố Huế
Để giải phóng thành phố Huế thân yêu trong ngày 25/3/1975 và giải phóng hoàn toàn Thừa Thiên Huế ngày 26/3/1975 là một quá trình đấu tranh vô cùng gian khổ của quân và dân ta; là dấu mốc ghi nhận sự hy sinh vô cùng to lớn của đồng bào, đồng chí trên cả 3 vùng: rừng núi, nông thôn và thành thị.
Trong 50 năm qua, chúng ta đã có nhiều sách báo, hội thảo, mít tinh phản ánh, thông tin đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của ngày toàn thắng.
Tôi là người có vinh dự được tham gia trong đội hình của đoàn quân thắng trận. May mắn còn sống sau cuộc chiến khốc liệt, tôi thầm nghĩ rằng sách báo, phim ảnh vẫn chưa phản ánh hết sự hy sinh của đồng chí, đồng bào, đồng đội.
Ấn tượng của tôi trong chiến dịch giải phóng Huế đó là sự khốc liệt của các mặt trận Hương Trà, Hương Thủy, Phong Điền, Quảng Điền… bởi đây là các mặt trận xung quanh thành phố Huế.
Sự mất mát, hy sinh là điều còn đọng mãi trong tôi. Điển hình như tại mặt trận Hương Trà, trong kháng chiến chống Mỹ có 4 đồng chí bí thư, 5 đồng chí thường vụ huyện ủy, hàng chục bí thư các xã đã hy sinh. Chỉ tính riêng đợt 1 trong cuộc Tổng Tiến công và nổi dậy Xuân 1968, tại mặt trận Quê Chữ, dù đã đẩy lùi một đợt tấn công của lính Mỹ, giữ được trận địa, nhưng 200 chiến sĩ của ta đã hy sinh; trận Thanh Lương – Phước Yên, chúng ta hy sinh gần 500 đồng chí; trận Phường Nam - Hương Chữ cũng hy sinh gần 200 đồng chí…
Đối với các trận đánh trong chiến dịch giải phóng Huế, tối 8/3/1975, mở màn chiến dịch, các mũi tấn công hình thành, ngay tại mũi đánh Chi khu Hương Trà, Phân chi khu Hương Sơ, chúng ta cũng đã tổn thất nặng nề. Đặc biệt, trận phục kích ở hói An Lưu gần 10 đồng chí bị thương, hy sinh. Hay một trận phục kích tại km 9, Chi khu Hương Trà dù chúng ta giành thắng lợi nhưng quá trình rút lui, 6 đồng chí đã hy sinh, chính tay tôi chốn cất tại bờ ruộng vào 3h sáng 24/3/1975. Đó là những đồng đội đã hy sinh trước ngày toàn thắng mà tôi không bao giờ quên.
Đơn vị Biệt động thành Huế từ năm 1966 - 1975 đã đánh hàng trăm trận lớn nhỏ. Riêng đơn vị Biệt động thành ở cánh bắc Huế có gần 30 đồng chí hy sinh, trong đó có 1 chính trị viên, 2 đội trưởng, phần lớn chưa lập gia đình.
Là đơn vị vào thành sớm nhất, tối 24/3/1975, trinh sát Biệt động Thành Huế thâm nhập, đến 1h ngày 25/3 tiến vào tiếp quản các trục đường Trần Hưng Đạo, Phan Bội Châu, cầu Trường Tiền, chợ Đông Ba. Đó là thời khắc lịch sử!
Bà Lê Thị Nhân, thành viên phong trào học sinh - sinh viên Huế trước năm 1975: Thời khắc không bao giờ quên
Giá trị của giải phóng, của tự do trong tôi hạnh phúc đến nhường nào. Quê hương giải phóng là thời khắc thiêng liêng, không bao giờ quên
Vốn là một học sinh của phong trào học sinh - sinh viên Huế, tôi tham gia hoạt động ở Nội thành. Từng bị tù đày ở Côn Đảo vào tháng 5/1972, tôi bị địch tra tấn dẫn đến bại 2 chân, co thắt tim. Bởi vậy, giá trị của giải phóng, của tự do trong tôi hạnh phúc đến nhường nào. Quê hương giải phóng là thời khắc thiêng liêng, không bao giờ quên!
Trở lại Huế, tôi được Thành ủy điều ra Bắc với mục đích vừa trị bệnh, vừa học tập. Trên đường chuẩn bị ra Bắc, đoạn ngang Đông Hà (Quảng Trị), tôi cùng đồng đội nghe tin chiến trường miền Nam và Huế sắp giải phóng. Lúc ấy, tôi muốn trở lại Huế ngay lập tức để được chứng kiến thời khắc lịch sử, để cống hiến một phần sức lực xây dựng quê hương. Tôi nộp đơn xin trở lại Huế và được tổ chức đồng ý, cùng về trên chuyến xe của đoàn hậu cần.
Đặt chân đến Huế thời điểm thành phố rợp cờ giải phóng, đứng trên mảnh đất quê hương, tôi được thỏa ước mơ từ lâu của mình: Mong một ngày Huế được giải phóng, đất nước thống nhất.
Chỉ sau một ngày giải phóng Huế, tôi được về thăm nhà. Cha tôi đứng đợi bên cánh cửa, ngỡ ngàng khi nhìn thấy xe của chính quyền quân quản chở một nữ bộ đội khỏe mạnh về thăm nhà. Hai cha con ôm nhau khóc trong niềm hạnh phúc vô bờ.
Dù ước mơ được theo học ngành y khoa, nhưng sau giải phóng thành phố cần cán bộ nên mơ ước ấy nhanh chóng tan biến và tôi gia nhập cơ quan phụ nữ, cống hiến 11 năm. Chuyển công tác đến công ty du lịch, tôi là một trong những người đón những đoàn khách du lịch quốc tế đầu tiên đến Huế; góp phần hình thành hệ thống du lịch nhà dân đón khách quốc tế tại Festival Huế năm 2000, tạo nền tảng cho việc phát triển hệ thống các khách sạn tư nhân như bây giờ.
Ông Nguyễn Thanh Thiệt, nguyên Chủ tịch UBND các phường Tây Lộc, Phước Vĩnh; nguyên Trưởng phòng Nội chính Tỉnh ủy (nay là Thành ủy Huế): Đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được nâng lên
Những ai đã từng trải qua trọn vẹn 50 năm từ sau giải phóng đến hôm nay mới thấy sự thay đổi của quê hương, đất nước
Sau ngày Huế giải phóng, tôi được phân công đảm nhận chức vụ Chủ tịch UBND phường Tây Lộc, thành phố Huế, nay là quận Phú Xuân. Sau đó ít năm, tôi được điều động, phân công làm Chủ tịch UBND phường Phước Vĩnh, thành phố Huế, nay là quận Thuận Hóa.
Những ai đã từng trải qua trọn vẹn 50 năm từ sau giải phóng đến hôm nay mới thấy sự thay đổi của quê hương, đất nước. Với tôi, là cán bộ sát với cơ sở ngay từ những ngày đầu, càng thấy rõ giá trị của sự thay đổi đó. Hôm nay, đường phố khang trang, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng nâng lên và đặc biệt là Huế đã được công nhận là thành phố trực thuộc Trung ương mới thấy sự thay đổi đó là lớn như thế nào.
50 năm qua, sự phát triển kinh tế làm tôi ấn tượng hơn cả. Khi so sánh với các địa phương, Huế có sự khác biệt, một thành phố không có quá nhiều tòa nhà cao tầng, không bị áp lực về mật độ đô thị quá lớn mà là một thành phố yên bình. Một thành phố khoảng cách giàu nghèo không quá lớn và có tính ổn định cao. Khi kinh tế đi vào ổn định là tiền đề để an ninh trật tự ổn định, người dân thụ hưởng được một cuộc sống hạnh phúc, một môi trường sống trong lành.
Yếu tố quyết định để Huế phát triển ổn định là sự lựa chọn về chính sách phát triển lấy văn hóa, bảo tồn di sản làm trọng tâm. Huế đã không đánh đổi bằng mọi giá để phát triển. Cùng với đó là sự điều chỉnh kịp thời các chính sách để phát triển.
Ông Hồ Văn Hợp, nguyên Chính trị viên Khu đội Tây Lộc: Tự hào được góp công sức nhỏ bé của mình để quê hương giải phóng và phát triển
Điều mà tôi luôn tự hào là đã góp một phần công sức nhỏ bé của mình để quê hương được giải phóng và ngày càng phát triển như hôm nay
Tôi là Chính trị viên Đại đội Quân khu Trị Thiên. Khi quê hương giải phóng, đơn vị tôi được cấp trên phân công vào tiếp quản TP. Huế và giữ chức vụ Chính trị viên Khu đội Tây Lộc.
Tối 26/3/1975, tại Nhà Văn hóa TP. Huế, hội nghị tiếp quản thành phố được tổ chức với chủ trương của trên là sớm ổn định tình hình. Khu đội Tây Lộc đã thành lập một tiểu đội tự vệ gồm 16 đồng chí, cả nam lẫn nữ. Nhiệm vụ của chúng tôi là tuần tra, canh gác, rà phá bom mìn, khắc phục hậu quả sau chiến tranh.
Chúng tôi tiếp quản một lượng lớn hạ sĩ quan, binh sĩ ngụy để tổ chức học tập, cảm hóa và vận động họ tiến hành dọn dẹp vệ sinh môi trường tại các công sở, đường sá; kịp thời ổn định tình hình, đảm bảo an ninh trật tự và cuộc sống cho người dân.
Sau thời gian nỗ lực cố gắng, những khó khăn ban đầu rồi cũng qua, dần dần các hạ sĩ quan, binh sĩ ngụy cũng bắt đầu giác ngộ cách mạng. Họ cùng với lực lượng tự vệ của Khu đội Tây Lộc tiến hành rà phá, tháo gỡ bom mìn tại khu vực sân bay Tây Lộc, khu vực Thượng thành, cửa Chánh Tây, cống Thủy Quan...
Sau ngày quê hương được giải phóng, các gia đình gần như trắng tay. Chính quyền đã bố trí đất để giãn dân, huy động bà con đắp đường, tổ chức trồng rau màu, sớm ổn định cuộc sống. Lúc này, phong trào sản xuất trong toàn thành phố của người dân được phát triển rộng khắp. Biết bao khó khăn vẫn còn ngổn ngang, nhưng chính sự đoàn kết, thống nhất đã vượt qua tất cả để quê hương, đất nước có được cơ đồ như ngày hôm nay.
57 tuổi Đảng, 76 năm tuổi đời, với tôi đã nếm đủ những cung bậc cảm xúc. Từng giữ những cương vị công tác khác nhau, vinh dự nhận được nhiều phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước, của địa phương, nhưng điều mà tôi luôn tự hào là đã góp một phần công sức nhỏ bé của mình để quê hương được giải phóng và ngày càng phát triển như hôm nay.
Nhà báo Hoàng Thị Thọ: Nhớ lắm phong trào Đô thị Huế!
Gần đến ngày 26/3, tôi lại bồi hồi nhớ Hà Nội bao la trong buổi chiều trọng đại năm 1975, ngày đất nước hòa bình, thống nhất
Gần đến ngày 26/3, tôi lại bồi hồi nhớ Hà Nội bao la trong buổi chiều trọng đại năm 1975, ngày đất nước hòa bình, thống nhất. Buổi chiều ấy không bao giờ quên.
Còn nhớ, tháng Giêng năm 1975, tôi rời núi rừng Trị Thiên - Huế ra Hà Nội. Trước khi đi, chú Hoàng Lanh, người lãnh đạo trực tiếp chúng tôi bấy giờ ân cần căn dặn: “Cháu cố gắng thi đậu vào Khoa Báo chí, học tập thật tốt để trở về xây dựng thành phố thân yêu”.
Thiếu tướng Dương Bá Nuôi gửi cho tôi 5 đồng và bức thư ngắn đầy tình nghĩa: “Để lúc đầu ở Thủ đô, cháu mua cái kim, sợi chỉ”. Chúng tôi ra đi trong bịn rịn, ngậm ngùi.
Nhà anh chị Tôn Nữ Ngọc Trai và nhà Sử học Nguyễn Hồng Phong ở số 6 Lý Thường Kiệt, Hà Nội là nơi anh em thường gặp nhau để nhớ về những năm tháng hào hùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Càng đến gần ngày kỷ niệm quê hương được giải phóng, tôi càng nhớ anh Ngô Kha, một trí thức tiêu biểu, một trong những nhân vật yêu nước nổi tiếng đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nhiều thế hệ trí thức, sinh viên, học sinh. Nhớ anh Thái Ngọc San, một nhà thơ tài hoa, yêu thích công việc treo pano chống chiến tranh Việt Nam ở những nơi cao nhất. Nhớ anh Bửu Chỉ trung kiên, quả cảm, một họa sĩ tài hoa đã để lại cho đời nhiều bức tranh quý giá. Nhớ anh Trần Phá Nhạc, nét chữ tròn và những dòng thơ thép. Nhớ anh Võ Quê, anh Nguyễn Duy Hiền, anh Huỳnh Quốc Ân bao đêm thức trắng bên những trang báo, bản tin với chiếc máy đánh chữ, máy quay ronéo để kịp ra báo, bản tin sáng hôm sau.
Tôi cũng rất nhớ các anh Trịnh Công Sơn, Phan Hữu Lượng những đêm đốt đuốc không ngủ… Anh Sơn ôm đàn guitar bắt nhịp cho mọi người hát Huế, Sài Gòn, Hà Nội, ta phải thấy mặt trời…
Còn biết bao người, bao điều để nhớ, để thương. Đó là, chị Phạm Thị Xuân Quế, các chị Quế Hương, Mỹ Hà, Kim Cương, Châu, anh Thuyên, anh Trận, anh Diên, anh Thọ, anh Liên, anh Cần, anh Minh, anh Hoài, anh Kỳ Sơn, anh Kim Hùng, anh Quy, Võ Phước, Thanh Liêm, Thanh Văn, Trạc, chú Huy, chú Lê Đông Pha (Chùa Bảo Quốc) Lô, Thiết, Ngộ, Vân Hà, Vương Trai, Sen, Lệ Dung, Hồng Trân, Bông Bông, Liên, Đoa, Trinh Tiên, Trinh Thi, Trinh Thanh, Thanh Quý, Võ Thị Thủy, Kim Thi, Liên, Mai, Nhân, Hường, An Tâm, Vũ Thủy, Yển, Nga (Quảng) Điểu, Quyên, Chanh, Mùi!... Ôi, làm sao nhắc hết cả phong trào Đô thị Huế!
Cựu chiến binh Trương Văn Trịch: Cảm xúc trong tôi thật khó tả
Những năm tháng ác liệt của chiến tranh đã để lại trong tôi những ký ức không thể nào quên
Năm 1968, khi vừa tròn 18 tuổi, tôi từ xã Nghĩa Xuân, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An hừng hực khí thế lên đường nhập ngũ, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Tôi gia nhập Sư đoàn Bộ binh 304, một trong những đơn vị chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đến năm 1972, tôi trực tiếp tham gia chiến dịch Trị Thiên. Đây là một trong những chiến dịch lớn, đã giải phóng Quảng Trị và ba xã thuộc tỉnh Thừa Thiên. Những năm tháng ác liệt của chiến tranh đã để lại trong tôi những ký ức không thể nào quên. Chiến trường năm ấy, tôi chứng kiến biết bao đồng đội ngã xuống để giữ vững trận địa. Những con sông, những cánh đồng, những mái nhà rêu phong khi ấy là nhân chứng cho những cuộc giao tranh khốc liệt.
Sau chiến thắng ở Trị Thiên, tháng 8/1974, Sư đoàn 304 tiếp tục tham gia trận đánh quan trọng tại Thượng Đức, nơi được mệnh danh là “cánh cửa thép” của Đà Nẵng. Đây là vị trí phòng thủ trọng yếu của địch, bảo vệ vòng ngoài cho Khu Liên hợp quân sự Đà Nẵng. Bằng tinh thần chiến đấu ngoan cường, quân ta đã đập tan lớp phòng ngự vững chắc của địch, mở đường cho Chiến dịch Huế - Đà Nẵng vào tháng 3/1975.
Tối 26/3/1975, chúng tôi nhận lệnh tiến quân vào Đà Nẵng. Vào buổi trưa, chúng tôi đã nhận được tin báo về chiến thắng tại Huế. Nhờ đó mà ai cũng hừng hực quyết tâm. Trận đánh diễn ra thần tốc, đến ngày 29/3, quân ta làm chủ hoàn toàn Đà Nẵng. Tôi còn nhớ rõ hình ảnh quân địch bỏ lại máy móc, thiết bị… tháo chạy trong hoảng loạn.
Sau chiến thắng ở Đà Nẵng, Sư đoàn 304 tiếp tục hành quân về Nam, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trong thời khắc trọng đại của dân tộc, đơn vị tôi là lực lượng đầu tiên tiến vào Dinh Độc Lập, đặt dấu chấm hết cho chế độ cũ. Khi lá cờ chiến thắng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, cảm xúc trong tôi thật khó tả, vừa hân hoan, vừa xúc động.
Sau khi đất nước thống nhất, tôi tiếp tục công tác trong quân đội, trải qua nhiều vị trí khác nhau. Đến năm 1990, tôi trở về Huế, đảm nhiệm vai trò giáo viên quân sự tại Trường Đại học Y – Dược, Đại học Huế. Bốn năm sau, tôi chuyển sang làm Trưởng Bộ môn Quân sự tại Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay là Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế). Tôi đã gắn bó với công tác giảng dạy quân sự đến khi nghỉ hưu vào năm 1998...
A. Phong - X. Thọ - Đ. Quang - Đ. Trình (Thực hiện)
Nguồn Thừa Thiên Huế : https://huengaynay.vn/chinh-tri-xa-hoi/tu-hao-va-tri-an-151975.html