Dư âm đẹp đẽ của lễ kỷ niệm 300 năm ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã mang đến cho mùa xuân của quê hương Hà Tĩnh những niềm hân hoan mới. Sau Đại thi hào Nguyễn Du, Hà Tĩnh tự hào là cái nôi nuôi dưỡng nhân cách, tài năng của những bậc trí giả được UNESCO công nhận. Và điểm chung lớn nhất để Đại danh y và Đại thi hào trở thành danh nhân thế giới chính là tinh thần nhân văn cao cả được thể hiện trong cuộc đời, sự nghiệp của mình.
Y học là con đường của lòng nhân ái
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác tuy không được sinh ra và lớn lên ở Hà Tĩnh nhưng trong những tao loạn cuộc đời, ông đã chọn quê mẹ Hương Sơn làm nơi neo đậu để sống và cống hiến cho y học suốt hàng chục năm. Trước khi trở thành danh y, ông từng tham gia quan trường, từng viết văn, làm thơ… và ở lĩnh vực nào cũng để lại những tư tưởng đạo đức sâu sắc. Đặc biệt, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ông cũng lấy “đạo” làm kim chỉ nam cho cuộc sống. Đạo chính là biểu thị của tinh thần nhân văn trong tư tưởng của Đại danh y.
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1724-1791). Ảnh: Internet.
Có thể thấy rất rõ điều này trong những lựa chọn sống thanh sạch của ông giữa cuộc đời đầy rẫy những cám dỗ. Lê Hữu Trác sinh ra trong một cự tộc nổi tiếng, có nhiều người đỗ đạt và làm quan to trong triều đình nhưng ông đã không chần chừ từ bỏ danh lợi chốn quan trường, lựa chọn về quê mẹ Hương Sơn sống ẩn dật giữa núi rừng. Đó là sự lựa chọn của một nhân cách lớn, của người biết tự trọng, giữ vững lập trường và sống đúng với lý tưởng. Chính sự lựa chọn này đã đưa ông đến với một cơ duyên vô cùng đẹp đẽ của nghề y mà ở đó tư tưởng nhân văn của ông được bộc lộ một cách mạnh mẽ nhất.
Bỏ Nho, học thuốc 20 năm để cứu mình, cứu người, dù không tìm kiếm danh tiếng nhưng tiếng thơm về tài năng và đức độ của Hải Thượng Lãn Ông đã lan tỏa khắp nơi. Đó là khi đạo làm người và đạo làm thuốc của ông quyện hòa với nhau. Hải Thượng Lãn Ông khẳng định rằng: “Đạo là khắp cả mọi sự vật trong trời đất, cái gì yên dân giúp đời là đạo, nghề thuốc trị bệnh cứu người, y học có tác dụng điều hòa khí hóa, bổ cứu âm dương, chế biến vạn vật, quan hệ đến khí hậu trời đất, tính mạng Nhân dân, có thấu suốt được chân lý thiên văn, địa lý và nhân sự thì mới làm được thuốc. Làm thuốc có khác gì làm tướng”. Chính quan điểm này đã đưa ông đến những thành tựu trong nghiên cứu đông y, khẳng định được giá trị và vị thế của nền y học Việt Nam.
Đại danh y Lê Hữu Trác đã để lại những giá trị to lớn về y học và bài học sâu sắc về đạo đức nghề nghiệp, tinh thần sống thoát tục và lòng yêu thương con người cho hậu thế.
Với Lê Hữu Trác, y học là một con đường để thể hiện lòng nhân ái. Trong suốt những năm làm thầy thuốc và đào tạo học trò, danh y Lê Hữu Trác đã dày công biên soạn những vốn quý ông lĩnh hội được từ các bậc tiền bối và từ chính tư tưởng, việc làm của mình để truyền lại y lý cho thế hệ sau. “Hải Thượng y tông tâm lĩnh” là bộ sách chứa đựng những gì tinh túy nhất trong sự nghiệp của người thầy thuốc vĩ đại này, là tài sản vô giá của nền y học Việt Nam và cũng thể hiện rất nhiều tinh thần nhân văn cao cả của ông.
Ông quan niệm và dạy học trò 8 đức tính của người thầy thuốc chân chính: nhân - minh - đức - trí - lượng - thành - khiêm - cần và cũng chỉ ra 8 tội cần tránh của lương y: lười - keo - tham - dối - dốt - ác - hẹp hòi - thất đức. Chính vì thế, dù khi đã trở thành một lương y nổi tiếng, ông vẫn đi bộ hơn 30 dặm, từng vượt núi Thiên Nhẫn trong đêm để cấp cứu cho bệnh nhân.
Tích xưa cũng kể lại, khi chữa một ca bệnh đậu mùa rất nặng cho một em bé con nhà thuyền chài nghèo khổ bên bờ sông heo hút, ông không lấy tiền thuốc, tiền công mà còn cứu trợ gia đình bệnh nhân gạo, củi, dầu đèn… Đạo làm người và đạo làm thuốc này không chỉ xuất hiện trong “Y tông tâm lĩnh” mà trong “Thượng Kinh ký sự” hay một số bài thơ của ông cũng phản ánh rất rõ. Những tâm tư của ông trong các tác phẩm này mang đậm tính nhân văn, hướng tới sự tu dưỡng bản thân và truyền tải những bài học đạo đức sâu sắc.
Trong bài thơ “Tâm sự trên đường đi” viết khi ông đang trên đường từ Hương Sơn lên kinh thành để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán đã bộc lộ những suy nghĩ về sự nghiệp và cuộc sống của mình: “Đường xa vạn dặm đòi sông núi/ Một gánh thân tàn gửi non sông/ Bụi trần mấy thuở thân buồn rầu/ Cao nhân chẳng dễ quên lòng thiện”. Dù mệt mỏi về thể xác, tâm trí ông vẫn luôn hướng về cái thiện, cái tốt đẹp, lấy lòng nhân ái làm động lực.
Lê Hữu Trác không chỉ để lại những giá trị to lớn về y học mà còn truyền tải những bài học sâu sắc về đạo đức nghề nghiệp, tinh thần sống thoát tục và lòng yêu thương con người.
Cái tâm - cốt lõi nhân văn của Đại thi hào Nguyễn Du
Nếu như Hải Thượng Lãn Ông dùng “đạo” để chuyên chở tư tưởng nhân văn của mình thì Đại thi hào Nguyễn Du lại chọn chữ “tâm” làm cốt lõi. Với ông, “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Ông dùng cái tâm của mình để nhìn đời, để hòa vào mọi kiếp đời, mọi mối quan hệ xã hội, hóa giải nó. Chính tấm lòng nhân hậu của ông với con người, với xã hội; chính những gì đã trải qua trong cuộc đời cộng với tài năng thiên bẩm đã đưa ông đến đỉnh cao văn chương với những tác phẩm văn học chữ Nôm, chữ Hán chứa đựng những giá trị nhân đạo sâu sắc.
Đại thi hào Nguyễn Du không chỉ kế thừa tinh thần nhân văn và chủ nghĩa nhân đạo trong truyền thống văn hóa dân tộc mà còn nâng các giá trị đó lên một tầm cao mới mang giá trị nhân loại.
Đâu chỉ có Kiều mới có 15 năm lưu lạc, chính Nguyễn Du cũng trải qua “thập tải phong trần”; đâu chỉ có Kiều mới khóc thương Đạm Tiên, chính ông cũng đã khóc thương người ca nữ đất Long Thành, khóc thương nàng Tiểu Thanh… Chính những điều đó đã mang tới nét mới trong tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du - đó là nỗi tự thương. Ông đã từ những tiếng khóc thương cho những số phận có thật trong đời (thơ chữ Hán) rồi vận vào mình để tự thương. Điều này cũng được tái hiện lại qua hệ thống nhân vật hư cấu trong Truyện Kiều. Và qua Truyện Kiều, tiếng khóc thương cho những thân phận cá nhân ấy đã vang lên trên toàn nhân loại.
Trong một nghiên cứu của mình, PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng (Trường Đại học Duy Tân) cho rằng: “Qua thái độ và sự đánh giá của Nguyễn Du đối với các nhân vật, chúng ta thấy toát lên tư tưởng khoan dung, một tư tưởng vượt thời đại của Đại thi hào. Trong tình yêu, tình bạn, trong cách đánh giá con người, Nguyễn Du đã vượt lên trên những quan niệm, lễ nghi phong kiến có tính hình thức ràng buộc con người, nhưng vẫn giữ được giá trị cốt lõi của vấn đề. Tư tưởng khoan dung của Nguyễn Du có 2 mặt: vừa chấp nhận sự đa dạng trong lối sống, cảm thông với hoàn cảnh của những con người xấu số, vừa lên án những bất công, xấu xa của xã hội”.
Nguyễn Du đã bằng cái tâm thiện lương của mình để nhìn việc làm vượt qua lễ giáo phong kiến của Thúy Kiều - Kim Trọng thành một chuyện tình đẹp, lãng mạn. Ông đã bằng cái tâm của mình để những con người bị người đời khinh rẻ như Đạm Tiên và về sau là cả Thúy Kiều nữa, vẫn được xót thương, thông cảm. Ông đã dùng quan điểm cá nhân của mình để cảm thông cho số phận ấy: “Như nàng lấy hiếu làm trinh/ Bụi nào cho đục được mình ấy vay?”. Cũng với chữ tâm ấy, Nguyễn Du đã để cho Kim Trọng tiếp nhận Thúy Kiều sau 15 năm lưu lạc bằng một thái độ rất tiến bộ, không khinh rẻ, xa lánh, trái lại - gần gũi như tri âm, tri kỷ…
Di tích Quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du. (Ảnh: Đậu Hà).
Dù có những lúc phải chuyển tải tư tưởng nhân văn qua thuyết thiên mệnh: “Ngẫm ra muôn sự tại trời/ Trời xanh đã bắt làm người có thân/ Bắt phong trần phải phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao” nhưng Nguyễn Du, qua văn chương của mình đã thể hiện lòng thương yêu con người tha thiết, ca ngợi vẻ đẹp thể chất và tâm hồn con người, khát vọng giải phóng họ khỏi sự áp bức, bất công, vươn tới tự do, bình đẳng, hạnh phúc. Ông không chỉ kế thừa tinh thần nhân văn và chủ nghĩa nhân đạo trong truyền thống văn hóa dân tộc mà còn nâng các giá trị đó lên một tầm cao mới mang giá trị nhân loại.
Trải qua bao thế kỷ, tư tưởng nhân văn của Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông và Đại thi hào Nguyễn Du vẫn còn nguyên giá trị, ảnh hưởng mạnh mẽ trong xã hội thời nay. Thơ văn hay y thuật của 2 danh nhân không chỉ là phương tiện để bộc lộ cảm xúc, tài năng cá nhân mà còn là công cụ để truyền bá triết lý sống và tư tưởng nhân văn sâu sắc, đưa họ lên tầm vĩ đại, có tính nhân loại.
Phong Linh