Tư vấn học đường: Đừng xây phòng rồi bỏ trống, bổ nhiệm cán bộ nhưng không hoạt động

Tư vấn học đường: Đừng xây phòng rồi bỏ trống, bổ nhiệm cán bộ nhưng không hoạt động
3 giờ trướcBài gốc
Học sinh sẽ được tư vấn tâm lý, hỗ trợ về học tập, giới với nguyên tắc an toàn và bảo mật thông tin.
"Chính danh hóa" vai trò của tư vấn học đường
- Bà nhận định thế nào khi Thông tư 18 được đưa vào thực tiễn?
Tiến sĩ Nguyễn Thị Việt Nga: Thông tư 18 là một văn bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi đây không chỉ đơn thuần là một hướng dẫn kỹ thuật, mà còn là bước hoàn thiện cơ chế pháp lý nhằm bảo đảm cho sự phát triển toàn diện của học sinh, sinh viên trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Trong nhiều năm qua, công tác tư vấn học đường và công tác xã hội đã được nhắc đến nhiều, song việc triển khai trên thực tiễn còn rời rạc, thiếu thống nhất. Có trường chú trọng, có trường còn bỏ ngỏ; có nơi thành lập phòng tư vấn, nhưng lại thiếu nhân sự chuyên trách hoặc thiếu quy trình bài bản. Chính vì thế, việc ban hành Thông tư 18 có thể xem là lời khẳng định rõ ràng của Bộ Giáo dục và Đào tạo: mỗi cơ sở giáo dục không chỉ là nơi dạy chữ, mà còn là không gian đồng hành, nâng đỡ, chăm sóc đời sống tinh thần, tâm lý và xã hội của người học.
Đội ngũ làm công tác tư vấn học đường và công tác xã hội trong trường học chính là “cầu nối” giữa người học với nhà trường, giữa gia đình với xã hội, và rộng hơn là giữa chính sách với thực tiễn. Họ không chỉ giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn trong học tập, định hướng nghề nghiệp, mà còn kịp thời can thiệp trong các vấn đề tâm lý, quan hệ xã hội, bạo lực học đường, sức khỏe tinh thần. Đặc biệt, trong bối cảnh áp lực học tập ngày càng lớn, các yếu tố xã hội tác động đa chiều, thì vai trò của đội ngũ này lại càng trở nên không thể thiếu.
Nói cách khác, Thông tư 18 chính là công cụ để chúng ta “chính danh hóa” vai trò của tư vấn học đường và công tác xã hội, biến mong muốn hỗ trợ toàn diện cho người học thành nhiệm vụ bắt buộc, có quy định, có lộ trình, có chế tài, thay vì chỉ dừng lại ở sự tự phát.
- Theo bà, những cơ sở giáo dục chưa triển khai công tác tư vấn tâm lý học đường phải đối mặt với những khó khăn nào?
Tiến sĩ Nguyễn Thị Việt Nga: Đối với những cơ sở giáo dục chưa từng triển khai hoặc triển khai còn hạn chế, khó khăn đầu tiên chính là vấn đề nhân sự. Hiện nay, nhiều trường chưa có cán bộ chuyên trách về tư vấn tâm lý hay công tác xã hội, thường chỉ phân công kiêm nhiệm cho giáo viên chủ nhiệm, tổng phụ trách Đoàn – Đội (thường là do nguyên nhân thiếu biên chế). Điều này dẫn đến tình trạng “quá tải nhiệm vụ”, khiến hoạt động tư vấn không đi vào chiều sâu, thiếu chuyên môn hóa.
Khó khăn tiếp theo là sự phối hợp liên ngành. Để công tác tư vấn đạt hiệu quả, không thể chỉ một mình nhà trường đảm nhận, mà phải có sự gắn kết với các cơ quan chuyên môn (Sở Y tế, Sở Nội vụ, các tổ chức chuyên sâu về Tâm lý học, các trường đại học có ngành đào tạo liên quan…). Tuy nhiên, ở nhiều địa phương, cơ chế phối hợp chưa được thiết lập rõ ràng, dẫn đến tình trạng “mạnh ai nấy làm”, nhà trường khó tìm được đầu mối để liên kết đào tạo, bồi dưỡng hoặc nhờ chuyên gia hỗ trợ.
Một khó khăn nữa là tâm lý e ngại từ cả phía cán bộ quản lý lẫn phụ huynh, học sinh. Nhiều người học và phụ huynh chưa quen với việc tìm đến dịch vụ tư vấn tâm lý hoặc công tác xã hội, thậm chí còn mặc cảm, sợ bị gắn “nhãn” là có vấn đề. Điều này khiến hoạt động triển khai tại trường học gặp trở ngại trong khâu tiếp cận, truyền thông.
Và cuối cùng, khó khăn về cơ chế đánh giá và giám sát: trước khi có Thông tư 18, chưa có quy trình chuẩn để lập kế hoạch, tổ chức, báo cáo, kiểm tra kết quả công tác tư vấn. Vì vậy, nhiều trường dù có triển khai nhưng không biết đánh giá hiệu quả thế nào, thiếu cơ sở để tổng kết, rút kinh nghiệm.
Tiến sĩ Nguyễn Thị Việt Nga, Ủy viên Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội.
- Ngành giáo dục nên cân đối nguồn kinh phí như thế nào để thực hiện Thông tư 18 đạt hiệu quả, thưa bà?
Tiến sĩ Nguyễn Thị Việt Nga: Kinh phí là yếu tố then chốt trong vấn đề này. Một khi đã xác định công tác tư vấn học đường và công tác xã hội là nhiệm vụ bắt buộc, thì Nhà nước, chính quyền địa phương, cũng như từng cơ sở giáo dục phải có kế hoạch phân bổ ngân sách phù hợp.
Có thể chia thành 3 nhóm chi phí cơ bản:
Thứ nhất, chi phí đào tạo, bồi dưỡng nhân sự: Đây là khoản đầu tư lâu dài để đội ngũ tư vấn có kiến thức chuẩn mực, cập nhật kỹ năng hiện đại. Kinh phí cần được bố trí thường xuyên, gắn với chỉ tiêu ngân sách hằng năm.
Thứ hai là chi phí vận hành, cơ sở vật chất. Các phòng tư vấn học đường cần có không gian riêng, đảm bảo sự riêng tư, trang thiết bị tối thiểu (máy tính, đường truyền internet, tài liệu, công cụ trắc nghiệm tâm lý…).
Cuối cùng là kinh phí cho chế độ, chính sách cho nhân sự. Người làm công tác tư vấn, nếu kiêm nhiệm, dễ rơi vào tình trạng “làm thêm nhưng không được ghi nhận” hoặc không có chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết. Do đó, cần quy định chế độ phụ cấp, hoặc hướng tới có biên chế, vị trí việc làm chuyên trách để bảo đảm động lực.
Tất nhiên, trong điều kiện ngân sách còn khó khăn, không phải địa phương nào cũng có thể đáp ứng đầy đủ ngay lập tức. Nhưng có thể triển khai theo lộ trình: ưu tiên các đô thị, khu vực có áp lực xã hội lớn trước, sau đó nhân rộng dần. Ngoài ra, có thể huy động thêm các nguồn lực xã hội hóa: hợp tác với trường đại học, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ, nhằm bổ sung kinh phí đào tạo, tập huấn.
Tránh tình trạng "phong trào"
- Ngành giáo dục cần cụ thể hóa các quy định liên quan đến số lượng/chế độ nhân viên tư vấn học đường và công tác xã hội trong trường học, thưa bà?
Tiến sĩ Nguyễn Thị Việt Nga: Một văn bản quy phạm pháp luật ở cấp Thông tư thường đưa ra khung quy định chung, tạo hành lang pháp lý. Tuy nhiên, để triển khai đồng bộ, rõ ràng, cần cụ thể hóa một số chỉ số quan trọng như dưới đây:
Nhân viên tư vấn học đường và công tác xã hội cần được công nhận là một vị trí việc làm trong cơ cấu tổ chức của trường học, có chỉ tiêu biên chế, có tiêu chuẩn năng lực rõ ràng, được tham gia các khóa bồi dưỡng định kỳ, và quan trọng hơn là được hưởng chế độ lương, phụ cấp, bảo hiểm như các viên chức khác.
Bên cạnh đó, ở nhiều quốc gia, tỷ lệ được khuyến nghị là 1 chuyên viên tư vấn/300 – 500 học sinh. Với điều kiện Việt Nam, có thể đặt mục tiêu ban đầu là 1/700 – 800, sau đó tiến tới chuẩn quốc tế khi đủ nguồn lực.
Đồng thời, ngành giáo dục cần có bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác tư vấn, từ mức độ hài lòng của học sinh, phụ huynh, đến số lượng trường hợp được hỗ trợ thành công, nhằm tránh tình trạng hình thức, chiếu lệ.
Cụ thể hóa những vấn đề này không chỉ giúp triển khai hiệu quả hơn, mà còn tạo động lực thu hút nhân sự có chuyên môn vào lĩnh vực vốn dĩ còn khá mới ở Việt Nam.
- Theo bà để Thông tư đi vào thực tiễn đạt được mục tiêu đề ra, ngành giáo dục, nhà trường… cần lưu ý gì để tránh lãng phí nguồn nhân lực và kinh phí bỏ ra?
Tiến sĩ Nguyễn Thị Việt Nga: Để Thông tư 18 thực sự đi vào cuộc sống, ngành giáo dục và các nhà trường cần chú ý sáu vấn đề sau.
Thứ nhất là quán triệt nhận thức. Người đứng đầu cơ sở giáo dục phải coi đây là nhiệm vụ bắt buộc, không phải việc “làm thêm cho có” hoặc triển khai theo kiểu đối phó.
Thứ 2 là xây dựng kế hoạch cụ thể. Mỗi năm học cần có kế hoạch tư vấn học đường, công tác xã hội riêng, có chỉ tiêu, có phân công trách nhiệm rõ ràng.
Thứ 3 là phối hợp liên ngành. Không thể tách biệt giáo dục với y tế, lao động, đoàn thể. Cần cơ chế phối hợp chặt chẽ với các tổ chức xã hội, chuyên gia tâm lý, nhà khoa học.
Thứ tư là cần đào tạo nhân sự bền vững. Trường sư phạm cần đưa nội dung tư vấn tâm lý, công tác xã hội học đường là một trong những nội dung quan trọng trong chương trình, ngành nghề đào tạo giáo viên, để nguồn nhân lực tương lai được chuẩn bị ngay từ đầu.
Thứ năm là tận dụng công nghệ: Triển khai tư vấn trực tuyến, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong sàng lọc nguy cơ tâm lý, kết nối dữ liệu giữa nhà trường - gia đình - xã hội.
Cuối cùng là giám sát, đánh giá nghiêm túc. Báo cáo định kỳ, thanh tra, kiểm tra, rút kinh nghiệm, khen thưởng kịp thời để khích lệ tập thể, cá nhân làm tốt.
Quan trọng nhất, chúng ta phải tránh tình trạng “phong trào”, tức là xây dựng phòng tư vấn nhưng để trống, bổ nhiệm cán bộ nhưng không có hoạt động thực chất. Chỉ khi nào học sinh coi tư vấn học đường là nơi đáng tin cậy để tìm đến, phụ huynh coi đó là điểm tựa để chia sẻ, và giáo viên coi đó là “cánh tay nối dài” hỗ trợ công tác giáo dục, thì lúc đó Thông tư 18 mới thực sự thành công.
- Xin cảm ơn bà!
Hà Phương (Thực hiện)
Nguồn Phụ Nữ VN : https://phunuvietnam.vn/tu-van-hoc-duong-dung-xay-phong-roi-bo-trong-bo-nhiem-can-bo-nhung-khong-hoat-dong-20251002105130949.htm