Vết sẹo dài ngoằn như con rết trên bụng Xuân Quang (26 tuổi) là lời nhắc rằng tuổi trẻ không miễn nhiễm với ung thư. Một năm trước, anh nhận tin dữ: ung thư đại trực tràng giai đoạn 3A. Giờ đây, dù sức khỏe đã tạm ổn, Quang vẫn gắn đời mình với những cuộc tái khám, điều trị triền miên.
Trường hợp của anh không cá biệt. Chỉ trong một tuần, các bác sĩ khoa Ngoại Bụng 1, Bệnh viện K, đã phẫu thuật cho hai bệnh nhân khác ở tuổi 26 và 31. Căn bệnh vốn gắn với người trung niên đang trẻ hóa, từng ngày lấn sâu vào độ tuổi thanh xuân, gióng lên hồi chuông cảnh báo.
Ung thư đại tràng thường được phát hiện ở giai đoạn muộn do dễ nhầm lẫn với các bệnh lý khác. Ảnh: Adobe Stock.
Lý do bệnh ung thư trẻ hóa
Ung thư đại trực tràng phát sinh từ ruột già, bao gồm đại tràng và trực tràng. Bệnh thường khởi đầu từ các polyp nhỏ, dù không phải polyp nào cũng tiến triển thành ung thư.
Khi ung thư hình thành, nó khởi phát từ lớp trong cùng của ruột (niêm mạc), rồi theo thời gian có thể ăn sâu vào các lớp khác của thành đại tràng hoặc trực tràng. Khi tế bào ung thư xâm nhập vào thành ruột, chúng có thể xâm qua mạch máu hoặc mạch bạch huyết, rồi di chuyển đến các hạch bạch huyết gần đó hoặc di căn xa đến các cơ quan khác.
Trao đổi với Tri Thức - Znews, bác sĩ chuyên khoa II Hà Hải Nam, Phó trưởng khoa Ngoại bụng 1, Bệnh viện K, cho biết ung thư đại trực tràng đang trở thành gánh nặng y tế toàn cầu. Theo báo cáo của Cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế (GLOBOCAN) 2022, mỗi năm nước ta ghi nhận khoảng 16.835 ca mắc mới. Đáng lo ngại, 20-30% bệnh nhân được phát hiện khi bệnh đã tiến triển đến giai đoạn di căn, làm giảm đáng kể cơ hội sống.
Nếu trước đây đa số bệnh nhân ung thư đại trực tràng là người trung niên 60-70 tuổi, hiện nay các bác sĩ cho biết tỷ lệ bệnh nhân dưới 40 đã tăng rõ rệt.
"Tại khoa chúng tôi, trong số 25-30 ca đang điều trị, có đến 5 ca là bệnh nhân trẻ dưới 30 tuổi", bác sĩ Nam nói.
Theo vị chuyên gia, xu hướng "trẻ hóa" này liên quan nhiều yếu tố nguy cơ, trong đó nổi bật là yếu tố di truyền. Những bệnh lý di truyền liên quan đến ung thư đại trực tràng có thể kể đến hội chứng ung thư đại trực tràng di truyền không polyp (Lynch) và bệnh đa polyp tuyến có tính chất gia đình (FAP). Đây là 2 hội chứng thường gặp nhất, khiến bệnh nhân có nguy cơ mắc ung thư ở độ tuổi rất trẻ.
Bác sĩ chuyên khoa II Hà Hải Nam, Phó trưởng khoa Ngoại bụng 1, Bệnh viện K, thăm khám cho bệnh nhân ung thư đại trực tràng 26 tuổi.
Bác sĩ Nam dẫn chứng có trường hợp bệnh nhi mới 9 tuổi đã phát hiện ung thư đại trực tràng. Trẻ có tiền sử gia đình rõ rệt là cả bố và bác đều mắc ung thư đại trực tràng ở độ tuổi 40 và 45. Khi được đưa đi khám, bệnh nhi đã xuất hiện triệu chứng có máu trong phân, và qua nội soi phát hiện nhiều khối u trong đại trực tràng.
Ngoài yếu tố di truyền, một nhóm nguy cơ khác là các bệnh lý liên quan đến tổn thương tiền ung thư. Đó có thể là viêm loét đại trực tràng mạn tính hoặc polyp đại trực tràng.
Bác sĩ Nam nhấn mạnh một yếu tố quan trọng khác là lối sống. Trong xã hội hiện đại, tình trạng tĩnh tại ngày càng phổ biến, đặc biệt ở những người làm việc văn phòng phải ngồi nhiều, ít vận động.
"Thông thường, cơ thể cần có sự vận động tối thiểu vài giờ mỗi ngày để duy trì nhu động ruột. Tuy nhiên, thói quen ngồi lâu khiến nhu động đường tiêu hóa bị chậm lại. Khi đó, các chất thải và chất độc trong phân lưu lại lâu hơn trong ruột, tăng thời gian tiếp xúc với niêm mạc đại trực tràng, từ đó dễ gây tổn thương và hình thành ung thư", bác sĩ Nam phân tích.
Chế độ ăn uống được xem là một trong những yếu tố quan trọng quyết định nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng. Các nghiên cứu đã chứng minh việc lạm dụng thịt đỏ như thịt bò, thịt lợn, đặc biệt là các sản phẩm chế biến sẵn (xúc xích, thịt xông khói…) có thể làm tăng đáng kể nguy cơ ung thư đường tiêu hóa. Thói quen sử dụng thường xuyên các món chiên rán nhiều dầu mỡ, đồ nướng ở nhiệt độ cao hay thức ăn nhanh cũng được ghi nhận là tác nhân làm tăng nguy cơ bệnh.
Ngoài ra, chế độ ăn thiếu chất xơ khiến nhu động ruột giảm, làm chậm quá trình đào thải chất thải. Khi đó, các hợp chất độc hại và sản phẩm chuyển hóa trong ruột sẽ tiếp xúc lâu dài với niêm mạc, dễ gây ra những tổn thương tiền ung thư. Ngược lại, việc bổ sung nhiều rau xanh, hoa quả, ngũ cốc nguyên hạt lại giúp rút ngắn thời gian chất độc lưu lại trong ruột, đồng thời nuôi dưỡng hệ vi khuẩn đường ruột có lợi.
Một yếu tố khác là tình trạng béo phì. Thừa cân không chỉ tác động xấu đến hệ tiêu hóa và chuyển hóa mà còn gây mất cân bằng hormone, làm tăng tình trạng viêm mạn tính trong cơ thể - đây chính là môi trường thuận lợi để ung thư phát triển.
Những triệu chứng cảnh báo sớm
Bác sĩ chuyên khoa II Hà Hải Nam, Phó trưởng khoa Ngoại bụng 1, Bệnh viện K, cho hay ung thư nói chung và ung thư đại trực tràng nói riêng thường khó phát hiện ở giai đoạn sớm vì triệu chứng mờ nhạt. Chỉ đến giai đoạn muộn hơn, bệnh nhân mới xuất hiện những dấu hiệu bất thường.
Theo bác sĩ Hà Hải Nam, một trong những triệu chứng dễ nhận biết là thay đổi thói quen đi ngoài. Nếu trước kia người bệnh đi đều đặn một lần mỗi ngày, khi mắc ung thư có thể nhiều ngày liền không đi được, hoặc ngược lại, đi quá nhiều lần trong ngày (trên 3 lần).
Bên cạnh đó, thời điểm đại tiện cũng thay đổi, thay vì cố định vào buổi sáng hoặc tối, bệnh nhân có thể đi bất cứ lúc nào trong ngày. Hình dạng phân cũng khác thường, từ khuôn rắn bình thường trở thành phân lỏng hoặc nát. Màu sắc phân thay đổi, có thể lẫn máu, chuyển sang đỏ hoặc nâu sẫm thay vì vàng nâu vàng.
Hiện nay, tại Việt Nam, các phương pháp điều trị ung thư đại trực tràng đã được cập nhật và tương đồng với thế giới. Ảnh: Duy Hiệu.
Ngoài ra, bệnh nhân còn có thể bị đau bụng do khối u cản trở trong lòng ruột khiến nhu động phải tăng co bóp để đẩy chất thải qua, dẫn tới cơn đau quặn bụng. Một số người còn có biểu hiện sút cân, chán ăn, ăn uống kém ngon miệng.
"Đáng chú ý, ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi, ung thư đại trực tràng thường tiến triển nhanh hơn so với người lớn tuổi. Nguyên nhân là tốc độ phân chia tế bào ở người trẻ cao, kéo theo tế bào ung thư cũng nhân lên nhanh", bác sĩ Hải Nam nhận định.
Tuy ung thư đại trực tràng đang có xu hướng trẻ hóa, song bệnh ở người trẻ thường có tiên lượng khả quan hơn nhiều ung thư đường tiêu hóa khác. Đây là loại ung thư có khả năng điều trị triệt để cao nhờ phẫu thuật cắt bỏ khối u kết hợp với các phương pháp bổ trợ. So với ung thư dạ dày hay ung thư thực quản, tiên lượng ung thư đại trực tràng ở cùng giai đoạn thường tốt hơn.
Tại Việt Nam, các phác đồ điều trị ung thư đại trực tràng đã được cập nhật, tiệm cận với chuẩn mực thế giới. Phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị nền tảng, giữ vai trò quyết định trong việc loại bỏ khối u. Sau phẫu thuật, bệnh nhân thường được chỉ định hóa trị hoặc xạ trị nhằm tiêu diệt tế bào ung thư còn sót lại, giảm nguy cơ tái phát và nâng cao hiệu quả điều trị.
Bên cạnh đó, những tiến bộ trong y học hiện đại như liệu pháp miễn dịch và thuốc điều trị trúng đích cũng đã được áp dụng tại Việt Nam. Các phương pháp này cho thấy hiệu quả tích cực, ngay cả với bệnh nhân ở giai đoạn muộn, có di căn xa hoặc tái phát sau điều trị. Sự kết hợp đa mô thức không chỉ kéo dài thời gian sống mà còn cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Tuy nhiên, việc lựa chọn phương pháp điều trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm giai đoạn bệnh, thể trạng bệnh nhân cũng như điều kiện kinh tế.
"Có những bệnh nhân hoàn toàn đủ điều kiện y khoa để sử dụng thuốc điều trị đích, nhưng do chi phí cao nên không thể tiếp cận. Đây là vấn đề còn nhiều trăn trở đối với bác sĩ và bệnh nhân", bác sĩ Nam nói.
Điều quan trọng là ung thư đại trực tràng hoàn toàn có thể phát hiện sớm nếu người dân duy trì khám sức khỏe định kỳ và thực hiện tầm soát. Các kỹ thuật hiện nay như nội soi đại tràng, xét nghiệm tìm máu ẩn trong phân hay xét nghiệm sinh học phân tử đều có thể phát hiện tổn thương ở giai đoạn tiền ung thư.
Khi polyp được phát hiện và cắt bỏ kịp thời, nguy cơ tiến triển thành ung thư sẽ giảm đáng kể. Thực tế cho thấy, nếu phát hiện ở giai đoạn sớm, tỷ lệ điều trị khỏi ung thư đại trực tràng rất cao, đồng thời giảm thiểu chi phí và gánh nặng điều trị cho người bệnh.
Phương Anh
Ảnh: Việt Linh