Vợ chồng GS. Nguyễn Quốc Vọng ( giữa) và thân hữu ở Huế
Tự tay pha ấm trà Shan ướp sen từ Hà Nội mang vào, nếu không lỡ hẹn với việc tham gia trồng cây phượng tím ở một ngôi trường quen ở Huế thì hẳn thời gian ông dành cho thân hữu nhiều hơn. Nhưng trong khoảnh khắc ít ỏi đó, Võ Ca Dao đã kịp chen ngang: “Các bạn trẻ khởi nghiệp ở Huế biết chú vừa ra sách nên tha thiết xin chữ ký tặng của tác giả”. Và ông càng phấn khích khi nghe TS.Trần Đình Hằng cho biết thêm, một trong những độc giả đó là Bùi Phúc đang sản xuất “Tinh chè xanh xứ Huế” và hiện ở Huế có 4 - 5 nhóm đang nghiên cứu về chè Truồi.
Ông là Giáo sư Nguyễn Quốc Vọng, năm nay tròn 80 tuổi, quê ở làng Phước Yên, xã Quảng Điền, thành phố Huế. Sau khi tốt nghiệp Đại học Nông Lâm Sài Gòn, năm 1969, ông du học Nhật Bản và đến năm 1977 nhận bằng Tiến sĩ Nông học của Đại học Tokyo. Làm việc ở Nhật một thời gian ngắn, sau khi kết hôn với du học sinh Nguyễn Thanh Tuyền (quê Vĩnh Long) từ năm1980, vợ chồng ông định cư ở Australia cho đến nay.
Tại đây, ông trở thành chuyên viên nghiên cứu của Viện Gosford Horticultural Institule và là thành viên Hội đồng tư vấn RIRDC cho Chính phủ Liên bang Australia; đồng thời làm Giáo sư thỉnh giảng của Đại học Western Sydney, Giáo sư kiêm nhiệm của Đại học RMIT. Tại Việt Nam, ông tham gia giảng dạy tại Đại học Cần Thơ, Đại học Nông Lâm Huế và Hà Nội, và từ năm 2007 trở thành Cố vấn cao cấp của Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam.
Chính nhờ tham gia 2 dự án do AFD - Cơ quan Phát triển chính phủ Pháp và ADB - Ngân hàng Phát triển châu Á tài trợ đã tạo điều kiện cho ông tiếp cận, nghiên cứu sâu về cây chè và được đúc kết trong cuốn “Cây chè Shan rừng Việt Nam” (NXB Thuận Hóa 2025). Trong tác phẩm, ông cho biết, sau khi đã tham khảo nhiều thông tin và dữ liệu nước ngoài để có cái nhìn đa chiều, tránh chủ quan, ông kết luận: “Trà Shan tuyết có chỉ số chất lượng y dược cao (chất catechin, tannin, axit amin và caffein), hơn hẳn các loại trà xanh bình thường trong và ngoài nước”.
Gần hai thập kỷ gắn bó với Việt Nam, vì thương cây nhớ cội nên GS. Nguyễn Quốc Vọng đã tìm về Huế. Thông qua bạn hữu, vợ chồng ông đã tìm về vùng bãi ngang hoặc lên miền núi hỗ trợ dân nghèo xây dựng hoặc tu sửa nhà cửa và mấy năm gần đây chuyển sang tổ chức trao học bổng hỗ trợ học sinh nghèo hiếu học.
Công việc diễn ra âm thầm nên tôi chỉ biết hoạt động của vợ chồng GS. Vọng qua nhà nghiên cứu văn hóa Huế Phạm Đức Thành Dũng, khi anh hào hứng kể lại chuyện đi A Lưới - nơi có vùng tiểu khí hậu đặc thù hầu như mát mẻ quanh năm, có hạ tầng khá tốt và vui hơn sau khi phát học bổng, vì nghe danh tiếng của GS. Vọng nên có mấy bạn thanh niên ở Hồng Vân mời cho bằng được vợ chồng “GS. Chè” đến tận nơi “xem giúp có phải là chè rừng không”.
Vì ước ao ở vùng núi Huế mình có giống chè Shan rừng nên vợ chồng GS.Vọng hăm hở theo chân các bạn trẻ. Bên sườn đồi cạnh một con suối, quả là có một cây hoang. Nó có dáng dấp của một cây chè rừng nhưng lá không có những nét đặc trưng như giống chè Shan rừng ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam và nhai có vị chát.
Theo tìm hiểu của GS. Nguyễn Quốc Vọng, Việt Nam có tới 38 giống chè thuộc loài Camellia Sinenis. Biết đâu do đặc thù của khí hậu, thổ nhưỡng, A Lưới lại có giống chè rừng mới mà ta chưa có điều kiện khám phá?
Sau khi thu nhặt mẫu, trước khi trở về Huế, vợ chồng GS. Vọng đã ghé chợ A Lưới và mua một bó chè tươi mang theo. Trước khi rời Việt Nam, GS. Nguyễn Quốc Vọng đã cho tôi xem hai mẫu lá cây mà ông ép cẩn thận trong cuốn sổ tay của mình. Và ông cam kết, sau khi phân tích sẽ sớm thông báo kết quả cho thân hữu biết.
Tôi mang ước vọng của GS. Nguyễn Quốc Vọng thuật lại cho nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hồ Xuân Mãn, vì ít ra trong những câu chuyện trước đây ông đã nhiều lần nhắc đến địa danh “Dốc Chè”. Đó là vào cuối tháng 2/1968, ông nhận nhiệm vụ dẫn đường cho Trung đoàn 9 (do cố Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu lúc đó chỉ huy) rút khỏi Huế. Trước khi đến Hồng Vân - A Lưới, đoàn quân đã băng qua “Dốc Chè” và sau đó, trước năm 1971, khi công tác ở Phong Điền, ông đã dẫn Bí thư Huyện ủy Lê Sáu và Bí thư Đoàn 6 Vũ Thắng lên họp Khu ủy cũng đều phải băng qua “Dốc Chè”.
So với mực nước biển, Dốc Chè có độ cao chừng 1.000m, hiện nằm giữa Rào Trăng đến Hồng Vân. Ông Hồ Xuân Mãn cho biết, trong một lần đi qua đây, thấy dưới những thân cây cổ thụ có mấy búp hoa. Người thì gọi đây là cây hoa trà mi nhưng người khác phủ nhận, bảo nó là hoa chè. Có thể vì đặc điểm này mà quân giải phóng đặt cho nó cái tên “Dốc Chè” cho dễ nhớ.
Có điều, “Dốc Chè” có phải là nơi chè rừng mọc hoang nhiều hay không thì ông không dám quả quyết. Nhưng dù sao đây cũng là tín hiệu đáng mừng và để xác định nó ông đề nghị ngành kiểm lâm và ngành khoa học công nghệ thành phố phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức khảo sát, xác định. Nếu đúng là chè Shan rừng thì khoanh vùng bảo vệ, lập kế hoạch khai thác, tạo kế sinh nhai cho bà con.
Riêng tôi chỉ mong ước vọng của GS. Vọng trở thành hiện thực.
Phạm Hữu Thu