Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách TP. Đà Nẵng Nguyễn Duy Minh điều hành thảo luận tại Tổ. Ảnh: Phạm Thắng
Luật Nhà giáo đã giải “bài toán” điều chuyển giáo viên
Thảo luận tại Tổ, các ĐBQH nhất trí cao với mục tiêu và tinh thần đổi mới của dự thảo Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để thực hiện đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Dự thảo Nghị quyết đã thể chế hóa kịp thời, đầy đủ và hiệu quả các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đột phá được nêu tại Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị; tạo hành lang pháp lý đặc thù, vượt trội để Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương triển khai đồng bộ, quyết liệt ngay từ năm 2026.
Tại khoản 2, Điều 2 quy định phụ cấp ưu đãi nghề được thực hiện theo lộ trình đối với cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập với mức tối thiểu 70% đối với giáo viên, 30% đối với nhân viên và 100% đối với giáo viên công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi.
ĐBQH Lê Văn Dũng (TP. Đà Nẵng) phát biểu tại Tổ. Ảnh: Phạm Thắng
Đánh giá cao chính sách trên, ĐBQH Lê Văn Dũng (Đà Nẵng) nêu rõ, phát triển giáo dục và y tế tại miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Trong đó, với giáo dục và đào tạo, trước mắt cần có cơ chế, chính sách đủ mạnh để thu hút giáo viên từ miền xuôi lên công tác. Về lâu dài, cần có chính sách để phát triển nguồn giáo viên tại chỗ. “Bảo đảm đủ số lượng giáo viên thì mới tạo sự phát triển giáo dục, cũng như bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực ở khu vực này”, đại biểu nhấn mạnh.
Tán thành quan điểm trên, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh, ĐBQH tỉnh Tuyên Quang nêu rõ, không nên thực hiện cơ chế cử tuyển, thay vào đó cần đầu tư cho dự bị đại học. Nếu còn đặt vấn đề cử tuyển sẽ khó bảo đảm chất lượng giáo viên, vì đối tượng cử tuyển có khoảng cách rất xa với đối tượng đào tạo chính thức. Do vậy, để phát triển nguồn giáo viên tại chỗ cần ưu tiên đầu tư các trường dự bị đại học để học sinh ở khu vực này có thể vững vàng bước vào học đại học. Có như vậy, sau khi tốt nghiệp đại học, các em trở về làm việc mới có chất lượng tốt.
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh, ĐBQH tỉnh Tuyên Quang phát biểu. Ảnh: Phạm Thắng
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội cũng nhấn mạnh, hiện có những y sĩ, y tá đã đăng ký học lên để vừa gắn bó địa phương, vừa nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn. Đề nghị cần tạo điều kiện cho các y, bác sỹ ở địa phương học nâng cao trình độ chuyên môn, ông cũng cho rằng, phải thiết kế chính sách phù hợp, không thể thực hiện mô hình “vừa học, vừa làm” như trước đây.
“Bây giờ nên đặt vấn đề là học nâng cao trình độ, chất lượng các khóa học này phải như học chính quy. Ưu tiên người tại chỗ nhưng phải chú ý trong đào tạo để bảo đảm chất lượng của nguồn nhân lực tại chỗ”, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội nhấn mạnh.
Về cơ chế trong tuyển dụng, sử dụng và quản lý nhân lực ngành giáo dục, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội cũng cho biết, sau khi Luật Nhà giáo được ban hành thì bài toán điều chuyển giáo viên giữa miền núi và miền xuôi đã được giải quyết. Bên cạnh trao quyền cho Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo thực hiện thẩm quyền tuyển dụng, tiếp nhận đối với nhà giáo, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục và nhân viên trong các cơ sở giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh, ông cũng đề nghị cân nhắc nơi nào đủ điều kiện nên giao cho cơ sở giáo dục trực tiếp tuyển dụng.
Về cơ chế ưu đãi hỗ trợ cho giáo viên và nhân viên, ĐBQH Phạm Thúy Chinh (Tuyên Quang) nhận thấy, dự thảo Nghị quyết chưa làm rõ mức độ, phạm vi cụ thể và nguồn ngân sách. Theo đại biểu, nguồn ngân sách này cần bảo đảm lâu dài và cần phải có kịch bản chi tiết ở giai đoạn đầu cũng như giữa kỳ thực hiện cơ chế, chính sách.
ĐBQH Phạm Thúy Chinh (Tuyên Quang) phát biểu tại Tổ. Ảnh: Phạm Thắng
Liên quan đến tổ chức tuyển dụng và sử dụng lao động ngành giáo dục, đại biểu đề nghị nên chăng giao cho Chính phủ quy định chi tiết về tiêu chuẩn, năng lực và quy trình minh bạch để bảo đảm tổ chức thực hiện hiệu quả.
Miễn phí sách giáo khoa thể hiện bản chất nhân văn của nền giáo dục
Khoản 1 Điều 3 quy định Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định một bộ sách giáo khoa giáo dục phổ thông sử dụng thống nhất toàn quốc, thực hiện từ năm học 2026–2027; thực hiện cung cấp miễn phí sách giáo khoa cho học sinh hoàn thành vào năm 2030; đối với các địa phương có điều kiện thì sẽ thực hiện miễn phí sách giáo khoa từ năm học 2026 - 2027.
Các ĐBQH cho rằng, đây là chủ trương được nhân dân hết sức quan tâm. Đây là chính sách lớn, mang ý nghĩa sâu sắc về phúc lợi xã hội và công bằng trong giáo dục. Sách giáo khoa không chỉ là công cụ học tập, mà còn là biểu tượng của tri thức, là phương tiện đầu tiên để mọi trẻ em tiếp cận quyền học tập bình đẳng được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Do vậy, ĐBQH Ma Thị Thúy (Tuyên Quang) khẳng định, chủ trương miễn phí sách giáo khoa là một bước tiến thể hiện bản chất nhân văn, xã hội chủ nghĩa của nền giáo dục nước ta.
ĐBQH Ma Thị Thúy (Tuyên Quang) phát biểu tại Tổ. Ảnh: Phạm Thắng
Tuy nhiên, đại biểu băn khoăn khi dự thảo Nghị quyết quy định những địa phương “có điều kiện” sẽ được thực hiện miễn phí sách giáo khoa sớm hơn 4 năm so với các địa phương còn lại.
Trong khi đó, thực tế cho thấy, những tỉnh “có điều kiện” chủ yếu là các đô thị lớn, trung tâm kinh tế - nơi đời sống nhân dân đã tương đối cao; những địa phương khó khăn như miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số lại phải chờ đến năm 2030 mới được thụ hưởng chính sách này.
Cho rằng áp dụng lộ trình như dự thảo Nghị quyết thì quyền tiếp cận giáo dục của học sinh giữa các vùng sẽ không còn bình đẳng về thời điểm, làm phai nhạt tinh thần công bằng xã hội trong giáo dục, đại biểu Ma Thị Thúy đề nghị, giữ mục tiêu miễn phí sách giáo khoa toàn quốc vào năm 2030, nhưng cần ưu tiên thực hiện sớm ở vùng đặc biệt khó khăn, miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số - nơi người dân thực sự cần sự hỗ trợ nhất. “Như vậy vừa thể hiện chính sách nhân văn, vừa đúng tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong giáo dục”.
Đại biểu Ma Thị Thúy cũng đề nghị, bổ sung tiêu chí cụ thể xác định “địa phương có điều kiện” dựa trên năng lực cân đối ngân sách, khả năng xã hội hóa và mức thu nhập bình quân đầu người, để việc triển khai minh bạch, tránh tùy tiện. Cho phép huy động nguồn lực xã hội hóa, quỹ học bổng, doanh nghiệp, tổ chức chính trị - xã hội cùng tham gia cung cấp sách giáo khoa miễn phí, thay vì chỉ dựa vào ngân sách nhà nước.
Đồng thời, thí điểm mô hình “thư viện sách giáo khoa dùng chung” tại các trường phổ thông từ năm 2026, đặc biệt ở vùng nông thôn và miền núi, để học sinh được mượn và sử dụng lại sách giáo khoa miễn phí trong thời gian chờ triển khai đồng bộ.
Thanh Hải