Vài nét về hành cung Vũ Lâm - nơi ghi đậm dấu ấn thời Trần

Vài nét về hành cung Vũ Lâm - nơi ghi đậm dấu ấn thời Trần
5 giờ trướcBài gốc
Quang cảnh Đền Thái Vi.
Kinh đô Thăng Long thời đó chỉ cách nước Đại Nguyên không xa, là nơi đồng bằng, không có thế hiểm trở núi cao sông dài, lại nằm ở bên tả ngạn sông Hồng, một khi giặc Nguyên - Mông xâm lược lần nữa thì khó giữ, không thể củng cố lực lượng tại Thăng Long được.
Trước đây, ở thế kỉ thứ X, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế đã xây dựng Kinh đô ở Hoa Lư (Ninh Bình) là vùng núi non hiểm trở, địa thế lợi hại, có giá trị phòng thủ cao, lại thuận lợi về giao thông thủy bộ, hơn nữa ở xa biên giới phía Bắc, giặc phương Bắc sẽ gặp khó khăn khi xâm lược nước Đại Cồ Việt.
Vì vậy, từ thực tế của vua Đinh Tiên Hoàng, muốn củng cố lực lượng, xây dựng hậu cứ vững mạnh ở thời đó, vua Trần Thái Tông đã chọn phủ Trường Yên (Hoa Lư, Ninh Bình) là nơi có nhiều núi đá vôi khép kín và mở, xen giữa là những sông ngòi chằng chịt để xây dựng Hành cung. Nhà vua đã tận dụng tối đa địa thế núi đá vôi để xây dựng Hành cung (cũng như vua Đinh Tiên Hoàng ở thế kỉ thứ X cho đắp các vòng thành Kinh đô Hoa Lư đều dựa vào các núi đá). Nơi đây làm hậu cứ để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông sau này rất tốt. Đó là tầm nhìn chiến lược, đúng đắn của vua Trần Thái Tông, cũng thể hiện ông là một thiên tài quân sự.
Vua Trần Thái Tông cho các quan đi khảo sát tại phủ Trường Yên, cuối cùng đã chọn động Vũ Lâm, hiện là thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, là vùng núi cao hiểm trở để xây dựng Hành cung Vũ Lâm. Nhà vua về đó với danh nghĩa là tu hành, chỉ cách Kinh đô Hoa Lư xưa ở xã Trường Yên, huyện Hoa Lư ngày nay về phía Nam khoảng 4km, mở đầu cho việc xây dựng Hành cung Vũ Lâm.
Thái Thượng hoàng Trần Thái Tông về vùng núi Vũ Lâm tu hành với tấm lòng hướng Phật, nhưng chính là muốn xây dựng căn cứ địa Trường Yên để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai. Các vua Trần thời đó đi tu hành, nhưng vẫn quan tâm đến việc đời, đạo và đời không tách bạch. Đi tu hành, nhưng Thượng hoàng Trần Thái Tông vẫn chỉ đạo vua Trần Thánh Tông điều hành đất nước, xây dựng Hành cung Vũ Lâm là một hậu cứ vững mạnh.
Nơi đây, quân Nguyên - Mông không thể dễ dàng tiến đánh quân ta được vì chúng không thông thạo địa hình lại cách xa Thăng Long hơn 100km. Vì vậy Hành cung Vũ Lâm sau đó được mở rộng ra phía Đông Nam động Vũ Lâm là vùng đất ngày nay thuộc xã Ninh Vân, phía Tây Nam xã Ninh Vân có núi Thiên Dưỡng. Theo Lê Tắc viết trong “An Nam chí lược” thì núi Thiên Dưỡng (sau gọi là Thiện Dưỡng) “Họ nhà vua xây dựng nhà cửa ở trong, để tránh quốc nạn”. Hành cung Vũ Lâm mở rộng ra phía Đông Bắc động Vũ Lâm là vùng đất xã Ninh Xuân ngày nay, tại thung Lấm, quân lính thời Trần đã đóng quân ở đó. Hành cung Vũ Lâm còn mở rộng ra phía Đông động Vũ Lâm là vùng đất xã Ninh Thắng ngày nay, tại thôn Hành Cung vua Trần Thái Tông đã cho xây cung điện ở đấy. Như thế Hành cung Vũ Lâm lúc đầu chỉ là động Vũ Lâm, về sau đã trải ra một địa bàn khá rộng lớn, là vùng đất của 4 xã ngày nay: Ninh Hải, Ninh Thắng, Ninh Vân, Ninh Xuân có diện tích khoảng 4.866 ha thuộc huyện Hoa Lư ngày nay.
Theo sách “Thái Vi quốc tế ngọc kí”, năm 1258 đến thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải huyện Hoa Lư ngày nay, vua Trần Thái Tông cho xây một am nhỏ tại chỗ đất cao dưới chân núi phía Đông bên sông Ngô Đồng ở phía trong Hang Cả (đi qua Hang Cả bên phải là đến đất dựng am. Hiện nay khu đất đó gọi là đất Vườn Am, cao hơn mặt ruộng rộng khoảng hơn một sào). Dãy núi nằm bên khu đất đó là núi Vườn Am đã ghi nhận việc vua Trần Thái Tông dựng am (nhà ở) tại đây. Như thế, có lẽ, Trần Thái Tông là ông vua đầu tiên đã đi thuyền qua hang Cả của Tam Cốc ngày nay, là người phát hiện ra hang Cả sớm nhất. Nơi ở đó của vua Trần Thái Tông rất kín đáo, kẻ thù không thể phát hiện và vào được.
Một thời gian sau, thấy ở đó chật hẹp, lầy lội, vua Trần Thái Tông cho chuyển am ra động Vũ Lâm dựng am Thái Vi ở đất Triều cũ hiện nay có đền Thái Vi, nằm về phía Tây Bắc thôn Văn Lâm. Theo sách “Thái Vi Quốc tế ngọc ký”, am Thái Vi có hai tòa, tòa bên trong 3 gian, tòa bên ngoài cũng 3 gian, tòa bên trong đặt một cỗ ngai rồng, một bàn hương để thờ Tam Thanh Thượng Đế.
Trung tâm của Hành cung Vũ Lâm là am Thái Vi thuộc thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải ngày nay. Đây là một địa danh hiểm trở, ba mặt Bắc, Tây, Nam đều có núi đá cao sừng sững bao quanh, chỉ còn mặt phía Đông là không có núi chắn, nhưng lại có sông Ngô Đồng chảy vào.
Từ đây, cách Thăng Long có hơn 100 cây số, giao thông thủy, bộ đều thuận tiện. Đi thuyền có các đường thủy đều vào được am Thái Vi. Đường biển, từ biển Đông vào cửa sông Đáy, đến ngã ba Non Nước theo sông Vân Sàng xuôi phía Nam đến ngã ba Vũng Trắm, qua ngã ba Ba Vuông rẽ vào bến Hạ Trạo, theo sông Hệ Dưỡng vào sông Ngô Đồng. Một đường biển nữa từ cửa Thần Phù (ngày nay là đất xã Yên Mạc, huyện Yên Mô) tới sông Thần Phù, qua sông Hổ, sông Trinh Nữ, sông Vân Sàng về bến Hạ Trạo theo sông Hệ Dưỡng vào sông Ngô Đồng.
Đường sông, từ sông Tô Lịch (Thăng Long) xuôi về Nam theo sông Nhuệ, về đến sông Châu Giang, vào sông Đáy đến ngã ba Non Nước, rồi xuôi sông Vân Sàng đến ngã ba Ba Vuông rẽ vào bến Hạ Trạo theo sông Hệ Dưỡng vào sông Ngô Đồng.
Nếu rút lui về phía Nam, từ sông Ngô Đồng qua sông Hệ Dưỡng đến ngã ba Ba Vuông theo sông Vân Sàng đi thuyền qua sông Trinh Nữ, sông Hổ sẽ vào được Thanh Hóa. Đường bộ là đường Thiên Lý - gần trùng với đường quốc lộ 1A hiện nay - Từ Hành cung Vũ Lâm ra tới đây, ngược lên phía Bắc tới Thăng Long, xuôi về Nam, qua Tam Điệp là vào Thanh Hóa, Nghệ An.
Việc chọn vùng núi Vũ Lâm làm Hành cung để tu hành, cũng là hậu cứ chỉ đạo cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông của vua Trần Thái Tông là rất khoa học. Tại đây, có thể nói là “Kinh đô đá”, vua quan nhà Trần đã họp bàn đưa ra những quyết sách chiến lược chỉ đạo quân dân nhà Trần chuẩn bị bố trí lực lượng ở những nơi hiểm yếu để đón đánh quân Nguyên - Mông. Hành cung Vũ Lâm khi đó trở thành trung tâm chỉ đạo, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông.
Đến niên hiệu Bảo Phù (1273 - 1278), vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278) đã xây thêm một số cung điện. Cùng với việc xây thêm cung điện Thái Vi trong niên hiệu Bảo Phù, nhân dân thôn Văn Lâm đã làm một con đường từ làng Văn Lâm vào cung điện, xây cầu Rồng đá qua sông Ngô Đồng, gọi là cống Rồng. Hiện nay vào đền Thái Vi đi theo con đường bộ đó, nhánh sông xưa không còn. Theo con đường này, là một hệ thống trạm gác, để kiểm soát rất khoa học, kiên cố và cẩn mật để vào gặp vua. Nếu tính từ thôn Hành Cung (Nơi vua Trần Thái Tông lập cung điện đầu tiên) ở xã Ninh Thắng vào đến am Thái Vi, con đường này chỉ dài khoảng trên 4 km, nhưng đã có đến 5 điểm dừng chân để kiểm soát những người vào am Thái Vi.
Đầu tiên là một trạm gác ở làng Tuân Cáo, thuộc xã Ninh Thắng, cách thôn Hành Cung về phía Tây khoảng 1km. Mọi người đến đây phải dừng lại báo cáo, xuất trình giấy tờ để kiểm soát. Đi tiếp 2km là tới đình Các ở thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, trước đây cũng là một trạm gác, các quan văn võ phải tập trung ở đó sửa sang lại mũ áo cho chỉnh tề. Sau đó họ đi bộ trên đoạn đường dài 200m rẽ về phía Tây Bắc mới đến Cửa Quan thứ nhất, là một trái núi lớn chắn ngang, rồi qua một cái quèn nhỏ. Nếu tính từ trạm kiểm soát đầu tiên của làng Tuân Cáo thì đến đây là trạm gác thứ ba. Nhưng Cửa Quan này mới chính thức được gọi là trạm gác thứ nhất để đi vào am Thái Vi gặp Vua. Đi tiếp một đoạn là cống Rồng làm bằng đá, hiện nay thay bằng bê tông cốt thép. Từ cống Rồng đá, đi khoảng gần 300m là đến trạm gác thứ hai ở chỗ miếu gò Mưng. Trạm này hình thành bởi một ngọn núi nhỏ chắn ở phía Bắc đường. Qua trạm gác này đi tiếp 300m mới đến trạm gác cuối cùng, cũng gọi là Cửa Quan hay Tam Quan. Cửa Quan này rộng 5m, do hai trái núi chắn hai bên lối đi tạo thành. Tiếp đó phải đi 300m nữa mới vào tới am Thái Vi. Nếu tính từ đình Tuân Cáo vào am Thái Vi thì phải qua 5 trạm gác có quan quân nhà Trần canh phòng cẩn mật mới vào được am Thái Vi.
Như thế hệ thống trạm gác này rất liên hoàn và chặt chẽ, các vua Trần đã biết khai thác triệt để thiên nhiên để phục vụ cho con người, dựa vào một số trái núi để làm trạm gác.
Người xưa đã có câu: “Nam chu, Bắc mã”, nghĩa là người Trung Quốc chủ yếu dùng ngựa để đi lại, người nước ta chủ yếu dùng thuyền để đi lại. Với hệ thống sông ngòi và núi đá dày đặc hùng vĩ ở Hành cung Vũ Lâm thì quân Nguyên - Mông chỉ quen đi ngựa rất khó khăn khi đến Hành cung Vũ Lâm. Do vậy, đất chiến địa Hành cung Vũ Lâm tập hợp, luyện tập quân sỹ rất tốt. Hiện nay ở thôn Đam Khê Trong thuộc xã Ninh Hải còn tên gọi một cánh đồng là Trường Thi. Đó là nơi quân sỹ nhà Trần ở Hành cung Vũ Lâm đã luyện tập tại đây.
Ở đền Thái Vi ngày nay còn tấm bia dựng vào niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11, tức là năm 1715 ở đời vua Lê Dụ Tông (1705 - 1729) đã mô tả quang cảnh Hành cung Vũ Lâm khi đó:
“Thấy nơi đây sơn thủy hữu tình quả như Bồng lai xuất hiện, vua cho xây cung điện, thập phương noi theo. Phía phải, suối khe khuất khúc, nước bạc lấp lánh. Phía trái, núi non trùng điệp đá xếp chênh vênh..., đẹp “tựa thiên đình””.
Ở phía Nam am Thái Vi, ngày nay là đầu làng thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải, vua Trần Thái Tông cho xây dựng ngôi chùa Sở để Ngài tụng kinh niệm Phật, nhưng cũng là nơi tu tập. Vào những ngày tuần tiết người dân đến chùa nghe Thượng hoàng giảng về đạo Phật. Thượng hoàng Trần Thái Tông là người không chia tách việc đạo, việc đời. Ngài về đây tu hành, nhưng vẫn chỉ đạo vua Trần Thánh Tông điều hành đất nước, đồng thời củng cố lực lượng, cho luyện tập quân sỹ, tích lũy lương thảo, xây dựng Hành cung Vũ Lâm là một hậu cứ vững mạnh.
Như thế vua Trần Thái Tông chính là người cho xây dựng nên Hành cung Vũ Lâm, không chỉ để tu luyện Phật pháp mà còn lo việc xây dựng phòng tuyến, làm hậu cứ để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai. Nhiều cuộc họp quan trọng của triều đình lúc bấy giờ, dưới sự chủ trì của vua Trần Thái Tông đã được tổ chức tại đây. Ông chính là một nhà quân sự thiên tài, có tầm nhìn chiến lược. Vua Trần Thánh Tông cũng đã về đây xây dựng thêm cung điện.
Ở am Thái Vi tu hành, xây dựng Hành cung Vũ Lâm một thời gian, chưa rõ vua Trần Thái Tông ở Hành cung Vũ Lâm bao nhiêu năm, sau đó ông lại trở về Kinh đô Thăng Long và mất vào năm 1277.
Ngày nay một số tên gọi và tên làng ở xã Ninh Hải, xã Ninh Thắng là nơi xây dựng Hành cung Vũ Lâm còn gợi lại những địa danh xưa của Hành cung Vũ Lâm.
Thôn Văn Lâm, xã Ninh Hải có Vườn Am là nơi vua Trần Thái Tông dựng am đầu tiên, có hang Cả, có Cửa Quan, Gò Mưng là những trạm gác, có Đình Các là nơi các quan thời xưa dừng lại sửa mũ áo trước khi vào am Thái Vi, có bến Thánh là bến thuyền, có cánh đồng Trường Thi là nơi luyện quân và thi võ của quân sĩ thời Trần.
Làng Tuân Cáo thuộc xã Ninh Thắng (cũ) có đình Tuân Cáo là nơi các quan ngày xưa dừng lại bá cáo, làng Hạ Trạo là nơi có bến Đông khi vua Trần Thái Tông đi thuyền đến đây đã cho hạ mái chèo, từ đó về sau quy định các quan đi thuyền đến đây đều phải hạ mái chèo thuyền để vào am Thái Vi. Xã Ninh Thắng (cũ) còn có tên một làng là làng Hành Cung ghi nhận có Hành cung Vũ Lâm, làng Khả Lương nằm về phía Bắc và Tây Bắc làng Hành Cung là nơi để kho lương thực của nhà Trần.
Vua Trần Thánh Tông là con của Thái Thượng hoàng Trần Thái Tông lên ngôi năm 1258 đã có thời gian về Hành cung Vũ Lâm xây dựng thêm cung điện. Năm 1277, vua Trần Thái Tông băng. Đến năm 1280. “vua Trần Thánh Tông về kinh ngự phê đặc chuẩn điện Thái Vi đắp Thần tượng Thái Tông phụng sự để kỷ niệm nơi Tiên đế xuất gia, lại quyên sáu mẫu ruộng ở xứ Thái Vi cấp cho 12 tên từ phu và tiền tế 12 quan để cung đốn cho việc khói nhang xuân thu chí tế đặt thành lệ nước”. Đến năm 1278, vua Trần Thánh Tông lại nhường ngôi cho Thái tử Khâm lên làm Thái Thượng hoàng. “Hàng năm hai kỳ (Thái Thượng hoàng Trần Thánh Tông) xuân thu thường đến điện Thái Vi yết tế”. Như thế vua Trần Thánh Tông đã cho đắp tượng vua Trần Thái Tông để thờ ở đền Thái Vi và đặt lễ tế ở đền Thái Vi do triều đình đảm nhiệm. Ông vẫn thường xuyên về đền Thái Vi yết tế. Thái tử Khâm lên ngôi là vua Trần Nhân Tông. Vua Trần Nhân Tông cũng về Hành cung Vũ Lâm, xem xét, củng cố và cho canh phòng bảo vệ Hành cung Vũ Lâm nghiêm ngặt. Tương truyền, năm 1283, vua Trần Nhân Tông cho xây dựng các phòng tuyến vòng ngoài để bảo vệ am Thái Vi về phía Đông. Ông đã cử Tiến sỹ Đào Dương Bật là người văn võ toàn tài về vùng đất thôn Đông Trang, xã Ninh An, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình ngày nay để chiêu dân lập ấp, cũng là cảnh giới bảo vệ Hành cung ở phía Đông, cách am Thái Vi khoảng 5km.
Cũng để bảo vệ am Thái Vi ở vòng ngoài phía Đông Nam, cách vùng đất thôn Đông Trang khoảng 3km, vua Trần Nhân Tông đã cử Hoàng tử Ngự Câu Vương là con trai của mình đến vùng đất hai xã Hương Du và Phương Du thuộc tổng Yên Vệ, nay là đất xã Khánh Hòa, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, lập căn cứ địa để trấn giữ phía Đông Nam của Hành cung Vũ Lâm. Ở đây Hoàng tử Ngự Câu Vương đã chiêu tập hiền tài, tuyển quân, xây dựng đồn lũy, tích lũy lương thảo, luyện tập quân sỹ để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai.Còn về phía Tây Hành cung Vũ Lâm, vua Trần Nhân Tông và Thượng Hoàng Trần Thánh Tông đã bố trí lực lượng quân sỹ thiện chiến ở vùng núi Thiện Dưỡng ngày nay nằm về phía Tây Nam xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư để chặn đường tiến quân của quân Nguyên - Mông từ Thanh Hóa tiến ra. Đây là vị trí chiến lược trong Hành cung Vũ Lâm. Điều đó chứng tỏ Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông rất quan tâm bảo vệ Hành cung Vũ Lâm cẩn mật để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai. Nhiều cuộc họp quan trọng của triều đình do Thái Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông chủ trì đã diễn ra tại Hành cung Vũ Lâm để bố trí lực lượng chuẩn bị đánh đuổi quân Nguyên Mông.
Ngày 3 tháng 5 năm Ất Dậu (7/5/1285), hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông cùng Trần Hưng Đạo đã đánh tan một bộ phận quân Nguyên Mông ở đây. Đại Việt sử kí toàn thư Tập II NXB KHXH 1998 trang 56, đã ghi: “Tháng 5, ngày mồng 3, hai vua đánh bại giặc ở phủ Trường Yên (Ninh Bình) chém đầu cắt tai giặc nhiều không kể xiết”. Quân Nguyên Mông xác phơi kín đồng cỏ, máu chảy đỏ cả một vùng. Sau này người dân còn lưu truyền câu: “Máu Lang Ca, ma Quang Hiển”.
Trận đánh quân Nguyên - Mông diễn ra tại thung lũng đá vôi Thiện Dưỡng. Ở giữa thung lũng đá vôi Thiện Dưỡng thuộc xã Ninh Vân nói trên hiện nay có cánh đồng Cửa Mả và gần đó có thung lũng Mồ, vì có nhiều mồ mả nên nhân dân địa phương vẫn gọi thung lũng này là “Đất chiến địa” đã ghi nhận điều đó. Trận đánh quân Nguyên - Mông ở phủ Trường Yên vào ngày 3 tháng 5 năm Ất Dậu (1285) là trận đánh có tầm chiến lược, có ý nghĩa quyết định đã tiêu diệt rất nhiều quân Nguyên -Mông, đã góp phần nhanh chóng quét sạch quân Nguyên - Mông ra khỏi đất Đại Việt sau đó. Một lần nữa cho thấy phủ Trường Yên không chỉ là đất Đế đô mà còn là đất chiến địa tiêu diệt quân thù. Như thế Hành cung Vũ lâm là một địa danh rất quan trọng ở thời Trần, là đầu não của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 2 năm 1285 và lần thứ 3 năm 1288, có chỗ đứng vững chắc trong lịch sử dân tộc.
Sau chiến thắng quân Nguyên - Mông lần thứ 3 (1288), nước Đại Việt thời gian này là hòa bình, yên ổn, sạch bóng quân thù. Hành cung Vũ Lâm vẫn tồn tại. Vua Trần Thái Tông mất từ năm 1277, Vua Trần Thánh Tông cũng đã mất năm 1290. Có lẽ để tưởng nhớ đến ông nội và cha đã ở Hành cung Vũ Lâm, nên năm 1294, Vua Trần Nhân Tông đã trở lại Hành cung Vũ Lâm. Sách “Đại Việt sử kí toàn thư” - Tập II - Nhà xuất bản Khoa học xã hội - Hà Nội - 1998 - Trang 71 và trang 72 có ghi: “Giáp Ngọ, Hưng Long năm thứ hai (1294)... Mùa thu, tháng 7... Bấy giờ, Thượng hoàng (Trần Nhân Tông) đến Vũ Lâm (xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình ngày nay) vào chơi hang đá (Tam Cốc), cửa núi đá hẹp, Thượng hoàng ngự chiếc thuyền nhỏ, Tuyên Từ Thái hậu ngồi đằng đuôi thuyền, gọi Văn Túc Vương (tên là Đạo Tái là con của Trần Quang Khải Trần Quang Khải là con thứ của vua Trần Thái Tông) lên mũi thuyền, chỉ để một người chèo thuyền thôi”.
Đến năm Ất Mùi, năm thứ ba (1295), tháng 6, Thượng hoàng Trần Nhân Tông mới từ Ai Lao trở về nước, sau đó bắt đầu xuất gia đi tu ở Hành cung Vũ Lâm. “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” ghi:
“Ất Mùi, năm thứ ba (1295)... tháng 6, mùa hạ... Thượng hoàng từ Ai Lao trở về, rồi xuất gia ở Hành cung Vũ Lâm, sau lại trở về Kinh Sư”.
Như thế năm 1295, Vua Trần Nhân Tông xuất gia tu hành ở Hành cung Vũ Lâm. Đây cũng là xu thế tất yếu của thời đại nhà Trần, Phật giáo phát triển, muốn tìm thấy những giá trị của đạo Phật, Vua, Hoàng hậu cũng đi tu, các vương công đi tu làm tăng chúng. Cho nên Thái Thượng hoàng Trần Nhân Tông cũng đi tu. Ngài xuất gia lần đầu tiên ở Hành cung Vũ Lâm.
Theo sử sách đã nêu trên thì Thái Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã tu hành ở Hành cung Vũ Lâm từ năm 1295. Nhà Vua tu hành ở Hành cung Vũ Lâm đến năm 1299 thì xuất gia lên Yên Tử.
Tỉnh Ninh Bình đã có Kinh đô Hoa Lư tồn tại 42 năm (968 - 1010) với 3 triều đại: Đinh, Tiền Lê, Lý. Đến thời Trần, tỉnh Ninh Bình lại có Hành cung Vũ Lâm tồn tại 41 năm, là vùng đất “địa linh nhân kiệt”. Như thế, Kinh đô Hoa Lư và Hành cung Vũ Lâm, đều là “Kinh đô đá” - Thủ đô ở núi rừng đã có 9 vị Vua ở đây, gồm: Đinh Tiên Hoàng, Đinh Toàn, Lê Đại Hành, Lê Long Việt, Lê Long Đĩnh, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. 9 vị Vua trên đã ở đất phủ Trường Yên, đã cùng quân dân nước Đại Cồ Việt, sau là nước Đại Việt xây dựng đất nước độc lập, tự chủ, thống nhất, phát triển, đánh Tống, bình Chiêm, chiến thắng quân Nguyên - Mông, làm vẻ vang cho truyền thống xây dựng, bảo vệ đất nước của dân tộc Việt Nam.
Bài, ảnh: Lã Đăng Bật
Nguồn Ninh Bình : https://baoninhbinh.org.vn/vai-net-ve-hanh-cung-vu-lam-tren-dat-ninh-binh-noi-ghi-dam-dau-an-thoi-tran-251228075328988.html