Các đại biểu Quốc hội khóa I họp Kỳ họp thứ nhất tại Nhà hát Lớn. Ảnh: Tư liệu
Sau ngày Độc lập (2/9/1945), chính quyền cách mạng non trẻ phải đối mặt đồng thời với rất nhiều khó khăn: trên trường quốc tế, Nhà nước Việt Nam mới chưa được công nhận rộng rãi; thực dân Pháp ráo riết quay trở lại xâm lược nước ta[1]; nạn đói, nạn dốt; ngân khố gần như trống rỗng... Đất nước ta ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Trong bối cảnh đó, yêu cầu đặt ra là phải nhanh chóng thiết lập một thiết chế quyền lực nhà nước có cơ sở pháp lý vững chắc, đủ sức tập hợp, đại diện và phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Quốc hội-cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân trở thành nhân tố then chốt để củng cố tính chính danh của chính quyền cách mạng, tạo nền tảng pháp lý cho hoạt động đối nội và đối ngoại của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự ra đời của Quốc hội khóa I vì thế vừa đáp ứng nhu cầu tổ chức bộ máy nhà nước, vừa là một tất yếu lịch sử gắn liền với sự nghiệp bảo vệ và giữ vững nền độc lập vừa giành được.
Việc tổ chức tổng tuyển cử và thành lập Quốc hội khóa I chính là lời tuyên bố về quyền làm chủ của nhân dân Việt Nam trước quốc dân đồng bào và dư luận quốc tế. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, từ làng xã đến toàn quốc, những người chức trách đều do dân cử ra. Dân tin cậy ai thì người ấy trúng cử và bổn phận những người trúng cử là làm đày tớ công cộng cho dân chứ không phải làm quan phát tài”[2] - đó là nguyên tắc cốt lõi, xuyên suốt trong tư duy xây dựng nhà nước của Người.
Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự ra đời của Quốc hội thể hiện ở quyết định chiến lược tổ chức tổng tuyển cử trong cả nước chỉ ít ngày sau khi giành được độc lập. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống”[3].
Trên tinh thần đó, ngày 8/9/1945, Chính phủ lâm thời ban hành Sắc lệnh số 14/SL triệu tập Quốc dân Đại hội, thể hiện niềm tin sâu sắc vào nhân dân và khát vọng sớm đưa đất nước đi vào quỹ đạo của một nhà nước hợp hiến, hợp pháp.
Nhà hát Lớn Hà Nội là nơi đã diễn ra Kỳ họp thứ nhất (2/3/1946) của Quốc hội khóa I. Ảnh: Văn Trí
Trong điều kiện thù trong, giặc ngoài, trình độ dân trí còn hạn chế, việc kiên quyết tổ chức bầu cử theo các chuẩn mực dân chủ hiện đại đã khẳng định rõ bản chất tiến bộ của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mời các đảng phái, nhân sĩ, trí thức, đại biểu các tôn giáo, dân tộc thiểu số tham gia Quốc hội; đồng thời chấp nhận những thỏa hiệp cần thiết nhằm giữ vững khối thống nhất quốc gia. Nhờ đó, Quốc hội khóa I trở thành một Quốc hội liên hiệp rộng rãi, phản ánh lợi ích chung của toàn dân tộc, tạo cơ sở chính trị vững chắc cho sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản chất của Nhà nước mới không phải là sự cai trị từ trên xuống, mà là sự ủy quyền của nhân dân thông qua các cơ quan đại diện do dân bầu ra: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân. Đó là vinh dự cao nhất”[4]. Vì vậy, Quốc hội chính là biểu hiện tập trung và sinh động nhất của quyền lực nhân dân. Quốc hội không chỉ làm luật, quyết định những vấn đề hệ trọng của quốc gia, mà còn là thiết chế bảo đảm để nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của mình.
Bằng những việc làm cụ thể, thiết thực của Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, cuộc bầu cử diễn ra trên khắp các địa bàn trong cả nước. Thành công của cuộc tổng tuyển cử với sự ra đời của Quốc hội khóa I (6/1/1946) là một tất yếu lịch sử, gắn liền với vai trò lãnh đạo xuất sắc của Người. Bằng tư tưởng dân chủ sâu sắc, tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng vững chắc cho chế độ dân chủ cộng hòa và cho sự phát triển bền vững của Nhà nước Việt Nam.
Về phương diện lý luận và thực tiễn, tư tưởng và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Quốc hội khóa I để lại nhiều bài học có giá trị lâu dài: bài học về phát huy dân chủ gắn với giữ vững ổn định chính trị; bài học về đại đoàn kết toàn dân tộc; bài học về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân... Việc nghiên cứu và vận dụng những giá trị tư tưởng đó không chỉ có ý nghĩa khoa học - lịch sử, mà còn mang giá trị thực tiễn sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Hải Hà
------------------------------------------------------
[1] Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Nam Bộ.
[2] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, trang 39.
[3] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, trang 7.
[4] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, trang 434.